I
Việc nghiên cứu văn chương vốn được coi như
một trong những cách hữu hiệu giúp cho
người ta hiểu một miền đất một xứ sở, và đối với người bản địa thì cũng là một
bước đi cần thiết đóng góp vào quá trình tự nhận thức của dân tộc.
Ở ta hiện nay việc nghiên cứu văn học chủ yếu được thực
hiện bằng cách đi sâu đánh giá phân tích
các tác giả tác phẩm quan trọng, rồi từ đó hình thành nên các giai đoạn các
thời kỳ chủ yếu mà nền văn học đó đã
trải qua.
Thế
nhưng để hiểu một nền văn học trong mối quan hệ với cộng đồng đã sản sinh ra nó,
người ta còn có thể đi vào nghiên
cứu theo một hệ thống khác:
-- quan niệm toát ra từ nền văn học đó về cái
đẹp cái thực, thậm chí cái không bình thường cái kỳ quặc ma quái...
-- Đặc điểm của nền văn học đó bộc lộ qua
việc sử dụng các phương thức sáng tạo như tự sự, trữ tình.
- Quan niệm về một thể loại nào đó (như thơ
tiểu thuyết) đã ổn định trong trường kỳ lịch sử .
-- Quan niệm về việc phiên dịch các sáng tác
từ các ngôn ngữ khác sang tiếng bản địa và câu chuyện giao lưu văn hoá nói
chung v..v...
Trong trường hợp này, văn học được nghiên
cứu theo cái cách người ta làm ra nó, cách này đặc trưng cho từng dân tộc và có
sự phân biệt rõ rệt với các dân tộc khác.
Đây cũng tức là nghiên cứu văn học từ cái
nhìn của văn hoá học – một phần thôi, cố nhiên.
Sở dĩ có thể nói đây là một hướng nghiên
cứu có triển vọng bởi nó mang lại cho giới nghiên cứu, nhất là những người trẻ, một thách thức mới.
Vì nghĩ như vậy, chúng tôi mạo muội đi vào
phác hoạ tư duy tự sự của người Việt. Đề tài quá lớn, dưới đây chỉ là một ít
ghi chép sơ bộ còn tản mạn và chắp vá.
II
Các thể tự sự đã có mặt ngay trong văn học dân gian VN.
Nhưng nếu nhìn chung đã có thể nói “trong văn hoá dân gian chứa đựng những phần
mới chỉ là nguyên liệu của nghệ thuật
chứ chưa phải là nghệ thuật “( 1) thì điều đó càng đúng với nghệ thuật tự sự.
Trong truyện cổ tích, nghệ thuật tự sự còn
rất đơn sơ. Mỗi truyện thường chỉ ngắn gọn, kể miệng với nhau độ mươi phút và mang
in ra khoảng trên dưới ngàn chữ.
Phần lớn các truyện này xoay quanh mối quan hệ giữa người nông dân nghèo với các loại nhà giàu trong làng (Cây tre trăm đốt ) hoặc nếu có mở rộng đến các loại vua quan thì mọi chuyện vẫn được hình dung thật giản dị, con đường đến với cung vua chẳng qua cũng chỉ là chính con đường làng được kéo dài (Ai mua hành tôi ).
Cũng có những cốt truyện khá rắc rối nhưTấm Cám bao quát gần như cả một đời người nhưng không nhiều. Về mặt kết cấu, trong các truyện cổ tích này, cốt truyện thường phát triển theo đường thẳng. Nhân vật nhiều khi chỉ được đặt một cái tên ước lệ nếu không phải không có tên, và địa điểm được nói tới cũng chung chung không cụ thể. Mô hình thế giới hiện ra trong truyện mang nặng tính cách ước lược đến mức tối giản.
Phần lớn các truyện này xoay quanh mối quan hệ giữa người nông dân nghèo với các loại nhà giàu trong làng (Cây tre trăm đốt ) hoặc nếu có mở rộng đến các loại vua quan thì mọi chuyện vẫn được hình dung thật giản dị, con đường đến với cung vua chẳng qua cũng chỉ là chính con đường làng được kéo dài (Ai mua hành tôi ).
Cũng có những cốt truyện khá rắc rối nhưTấm Cám bao quát gần như cả một đời người nhưng không nhiều. Về mặt kết cấu, trong các truyện cổ tích này, cốt truyện thường phát triển theo đường thẳng. Nhân vật nhiều khi chỉ được đặt một cái tên ước lệ nếu không phải không có tên, và địa điểm được nói tới cũng chung chung không cụ thể. Mô hình thế giới hiện ra trong truyện mang nặng tính cách ước lược đến mức tối giản.
So với cổ tích, các truyện cười là một bước
tiến trong nghệ thuật tự sự.Ở đây người ta bắt đầu cảm thấy có một sự sắp xếp nào đó để lôi cuốn người nghe
vào cuộc, lại có một sự phân bổ chi tiết,
lướt qua những đoạn mào đầu, dừng lại lâu hơn ở những đoạn đối thoại có khả
năng làm bật ra tiếng cười.
Với việc xuất hiện những Trạng Quỳnh,Trạng
Lợn, Ba Giai Tú Xuất, truyện cười còn đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật tự sự với
nghĩa vượt qua trình độ những mẩu nhỏ
rời rạc để theo dõi những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời một con người và
ghi chép được nhiều sự kiện có liên quan đến con người đó.
Có điều cần lưu ý mặc dầu gọi là một chuỗi mẩu đoạn ghép lại, nhưng Trạng Quỳnh vẫn chỉ có kết cấu đơn giản, những mẩu truyện nhỏ tồn tại cạnh nhau theo kiểu những viên gạch
được lát liền nhau có thể kéo dài bao nhiêu cũng được mà rút ngắn lại cũng được.
Hoặc có thể tạm ví đó là lối cấu trúc của con giun. Cơ thể giun gồm nhiều đơn
bào giống hệt nhau, một đơn bào bị cắt rời ra khỏi cơ thể vẫn tiếp tục sống
bình thường. Lối kết cấu như thế này tiện cho việc phổ biến theo lối truyền
miệng nhưng không có triển vọng khi vận dụng nghệ thuật tự sự trên văn bản viết.
III
Nghiên cứu và giới thiệu văn học Trung quốc ở miền Nam trước 1975 , Nguyễn Hiến Lê là người có thế mạnh đặc biệt. Ông đọc được cả tài liệu của các học giả Trung Hoa , lại đọc được cả người phương Tây viết về Trung Hoa. Các ý kiến của ông nhiều khi mới mẻ, đột ngột là vì thế.
Theo Nguyễn Hiến Lê, văn nhân Trung Hoa thời cổ ít tưởng tượng mà hay thuyết lý. Nhờ đọc kinh Phật, nhiều truyện tưởng tượng, nên họ mới bắt chước lối viết truyện của Ấn Độ (2).
Theo Nguyễn Hiến Lê, văn nhân Trung Hoa thời cổ ít tưởng tượng mà hay thuyết lý. Nhờ đọc kinh Phật, nhiều truyện tưởng tượng, nên họ mới bắt chước lối viết truyện của Ấn Độ (2).
Bà
Pearl Buck, khi bàn về tiểu thuyết Tàu, nói một ý tương tự. Các nhà giảng
đạo Phật cũng công nhận rằng muốn cho dân hiểu đến thần thánh thì không gì bằng
tả cho họ thấy là thần thánh cũng khó nhọc cặm cụi chân lấm tay bùn như họ (3).
Đây có lẽ là một ví dụ cho thấy vai trò
của tôn giáo đối với sự phát triển của tư duy tự sự.
Cũng theo Nguyễn Hiến Lê, ngay từ đời
Tống ở Trung quốc đã xuất hiện một nghề lạ là nghề kể chuyện giống như các trouveres
thời trung cổ bên Pháp. Hạng người đó có tài ăn nói đi từ phố này tới phố khác,
vào trong các chợ, các xóm làng đông đúc kể truyện thuê, và người ta bu lại
nghe, đáp công bao nhiêu tuỳ ý (4).
Còn các học giả Bắc Kinh thì sao ? Lịch sử văn hoá Trung quốc của nhóm
Đàm Gia Kiện ghi rõ “ở Biện Kinh có
trường sở kể chuyện tương đối quy mô“ và “nghệ nhân không những có sự phân công tỉ mỉ,
họ còn tổ chức thành thư hội“ (5).
Các nghệ nhân trên thường bắt đầu câu
chuyện bằng cách thắp một nén hương lên và đến khi nén hương tàn thì câu chuyện
của họ cũng chấm dứt.
Cho đến đầu thế kỷ XX, một số nhà viết tiểu
thuyết Trung Hoa vẫn còn coi mình có vai trò tương tự như vai trò của đám nghệ
nhân ấy và thích thú nhắc lại nghi thức xưa.
Chẳng hạn trường hợp Trương Ái Linh ( tức Zhāng Ailíng, tên tiếng Anh Eileen Chang 1920-1995). Nhà văn Hồng Kông rất nổi tiếng ở Anh Mỹ này từng gọi mấy thiên truyện của mình là Lư trầm hường thứ nhất, Lư trầm hương thứ hai .
“Xin bạn hãy tìm lấy một chiếc lư hương đồng gia truyền đã đốm mốc xanh đốt lên bình trầm hương nghe tôi kể về Hông Kông trước chiến tranh. Khi lư trầm hương của bạn cháy hết câu chuyện của tôi cũng sẽ kết thúc “ -- Một trong hai thiên truyện nói trên dẫn người đọc vào truyện bằng đoạn văn như vậy (6).
Chẳng hạn trường hợp Trương Ái Linh ( tức Zhāng Ailíng, tên tiếng Anh Eileen Chang 1920-1995). Nhà văn Hồng Kông rất nổi tiếng ở Anh Mỹ này từng gọi mấy thiên truyện của mình là Lư trầm hường thứ nhất, Lư trầm hương thứ hai .
“Xin bạn hãy tìm lấy một chiếc lư hương đồng gia truyền đã đốm mốc xanh đốt lên bình trầm hương nghe tôi kể về Hông Kông trước chiến tranh. Khi lư trầm hương của bạn cháy hết câu chuyện của tôi cũng sẽ kết thúc “ -- Một trong hai thiên truyện nói trên dẫn người đọc vào truyện bằng đoạn văn như vậy (6).
Đến nay chưa thấy có tài liệu nói có sự
xuất hiện của loại nghệ nhân nói trên trong đời sống văn hoá người Việt. Những
cuộc trò chuyện được hình thành ngẫu
nhiên, người nào cũng là người nghe mà cũng có thể là người đứng ra kể truyện, nhưng
do không ai sống hẳn bằng việc kể truyện ấy và nâng nó lên thành nghề, nên nghệ
thuật tự sự nói chung không phát triển lên được.
Trong
khi ở Trung Hoa, nghệ thuật tự sự dân gian được ghi chép lại chỉnh lý sắp xếp
lại thành những pho sách dài như Tam
quốc chí Thuỷ Hử, thì ở ta chỉ có Trạng Quỳnh,Trạng Lợn mà trước thời
hiện đại cũng chưa ai đứng ra ghi chép.
Nói một cách khái quát, nghệ thuật tự sự có
liên quan nhiều đến trình độ trưởng thành của đời sống tinh thần và nói chung là sự phát triễn
của đô thị trong lòng xã hội. Nhưng cả hai yếu tố trên (sự phát triển của
tôn giáo và sự phát triển đô
thị ) không phải là mặt mạnh của xã hội VN thời trung đại. Nếu tính đến yếu tố chữ viết để ghi chép và cố
định tác phẩm về mặt văn học thì sự thua thiệt của tự sự ở xứ ta càng thấy hiện ra rõ
rệt.
IV
Truyện Kiều là một đỉnh cao nghệ thuật
VN nói chung với nghĩa khi cần hình dung ra một con người VN cụ thể với cách
xúc động cách suy nghĩ những quan niệm tổng quát về cuộc đời này, người ta nghĩ
ngay đến cô Kiều, và ở chỗ này, cái việc “không ai còn muốn nhớ thật ra Kiều là một người Tàu sống ở thời Gia
Tĩnh triều Minh“ là không có gì đáng trách. Đằng sau các chi tiết chỉ có tính cách hình thức kia
là một tâm hồn VN thực thụ.
Cũng nhờ thế, có thể nói với Truyện Kiều, văn học
VN có được một thành tựu chói lọi, nó đã
đáp ứng được cái nhu cầu thiết yếu là nắm
được cái thần của con người VN và kể ra một cách sinh động.
Thế nhưng, khi nói về thành tựu của nghệ
thuật tự sự ở tác phẩm này, không được phép quên nó được chuyển thể từ cuốn
sách của Thanh Tâm tài nhân, nghĩa là mọi tài năng của tác giả chỉ bộc lộ ở
việc kể chuyện một cách gọn ghẽ tinh tế tước bỏ mọi chi tiết thô thiển không
cần thiết vốn có trong nguyên bản, ngoài ra không có thay đổi gì đáng kể về mặt
cốt truyện.
Mà cốt truyện thì biết bao trọng yếu đối
với tác phẩm tự sự: ngay khi chỉ được xem như một bộ khung cần được đắp thêm
chi tiết mới trở nên sinh động thì cốt truyện đã là một cách hình dung về đời
sống, tức một yếu tố đánh dấu trình độ hiểu biết của xã hội về mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh cũng như giữa con
người với nhau. Mỗi khi nói đến Truyện Kiều, thường ít nhà nghiên cứu ở
ta đả động tới tác phẩm trên phương diện tự sự
-- lý do là vì như vậy (7).
Xuất hiện trước và sau Truyện Kiều, nhiều truyện nôm dân gian và
bác học sáng tác trong thời trung đại đều có lối tổ chức cốt truyện tương tự
theo kiểu “ hội ngộ --lưu lạc --đoàn
viên “ và khi muốn nhận xét về các cốt truyện này người ta chỉ có thể nói nó
đơn giản hơn là phức tạp, gọn ghẽ thoáng đãng hơn là nhiều tầng nhiều lớp bề
bộn phong phú. Nói chung, cốt truyện trong các truyện nôm thường chỉ loanh quanh
trong một đời người trói tròn trong quá
trình lập nghiệp hay mưu cầu hạnh phúc của một cá nhân cụ thể mà không bao giờ
bao quát được nhiều thế hệ của một dòng họ để thấy sự phát triển liên tục của
con người trong một thời gian dài, và số nhân vật có liên quan thường cũng chỉ
trên dưới mươi người, chứ chưa bao giờ triển khai ra tới hàng trăm nhân vật như
ở các tác phẩm tự sự đồ sộ của những nền văn học lớn. (8)
V
Sự biến chuyển của văn học VN thế kỷ XX là sự
chuyễn biến sâu xa của cả một mẫu hình sáng tạo: từ nay mọi mặt quan niệm của
chúng ta về văn chương đều đã khác đi.
Không phải ngẫu nhiên trong nền văn học
trung đại, vị trí trọng yếu thuộc về các thể trữ tình.
Trong phạm vi một xã hội gồm nhiều làng
xóm độc lập manh mún tồn tại bên nhau, và cả cộng đồng chưa tạo dựng nổi một mặt
bằng văn học thống nhất, thì sự sáng tác dễ dừng lại ở trình độ nói ra để thoả
mãn nhu cầu nội tâm của chính chủ thể hơn là tìm cách tác động tới các đối tượng
khác.
Ngược lại, giờ đây xã hội được tổ chức
lại thành một thực thể có trình độ tổ
chức cao hơn thì sự sáng tác cũng được xã hội hoá theo nghĩa trực tiếp và cụ thể hơn, nói nôm na là người ta viết văn làm thơ không phải chỉ để tự vui với mình mà phần nhiều là để đăng báo in sách. Trong hoàn cảnh ấy, các thể văn
tự sự có chiếm một tỷ trọng cao hơn so
với trước kia thì cũng là điều dễ hiểu.
Có thể nói trước khi có Phong trào Thơ mới,
sự trưởng thành của nghệ thuật tự sự là kịch bản chủ yếu của những thay đổi đã
đến trên phương diện hình thức mà nền văn học VN đầu thế kỷ XX đã trải qua. Trên bước
đường xây dựng nền quốc văn mới, các
nhà văn lúc ấy thể nghiệm đủ các hình thức tự sự học được từ nước ngoài.
Hoặc đó là học của Trung Hoa: nên nhớ rằng
trong suốt trường kỳ lịch sử các truyện Tàu được nhà nho xưa đọc thẳng từ
nguyên văn; chỉ đến giai đoạn này do có chữ quốc ngữ, chúng mới được "diễn nôm" một cách đầy đủ, tức là phiên dịch cho mọi người biết đọc biết viết có thể đọc. Chính những truyện Tàu này đã đóng vai trò gợi ý để
hàng loạt tiểu thuyết kiểu như Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân, Hà
hương phong nguyệt, Đỉnh núi cành mai,Tiếng sấm đêm đông... có dịp ra đời.
Nhưng
ảnh hưởng lớn hơn và kéo dài hơn là
thuộc về nghệ thuật tự sự của phương Tây mà mặc dù mới lần đầu làm quen nhưng
nhiều người thấy hình như hợp với tâm lý
người Việt lúc ấy đang muốn tự đổi mới .
Việc
tập tành viết theo lối mới được triển khai từng bước mò mẫm nhưng chắc chắn
và không loại trừ cả một việc các cụ xưa
thường vẫn làm là vay mượn cốt truyện.
Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm phóng
tác từ Không gia đình của Herto Malot.
Ngọn cỏ gió đùa (cùng một tác
giả) xây dựng cốt truyện bằng cách dựa
vào Những người khốn khổ của V.Hugo.
Sống chết mặc bay là một cách mô phỏng từ Ván bi-a của A.Daudet
Ấy là chỉ kể những tác phẩm vay
mượn rõ rệt, còn số viết theo lối cảm đề , tức lấy cảm hứng từ tác phẩm xứ người, thì cũng rất nhiều.
Ngay từ cái tên, người ta đã thấy Dế mèn phiêu lưu ký (1941) của Tô Hoài là có họ hàng xa gần
với Tê-lê-mặc phiêu lưu ký của Fénelon do Nguyễn Văn Vĩnh mang vào tiếng
Việt (bản dịch in năm 1927). Lý do ở đây khá rõ ràng: trước đó ở ta chưa ai tính chuyện ghi lại những
chuyện phiêu lưu bao giờ và hình như khái niệm phiêu lưu cũng rất ít được sử
dụng.
Từ sự tiếp xúc với sách vở Tây dương, một số mô - típ của nghệ thuật tự sự như phiêu lưu mới được Việt
hoá để trở nên quen thuộc đến mức ta quên
cả xuất xứ của nó và ta tưởng
rằng từ ngàn xưa đã có các thể ghi chép ấy.
VI
Trong sự thay đỗi chung của các quan niệm văn
học như trên đã nói, lẽ tự nhiên là cái cách tự sự trong văn học Việt Nam cũng có thay đổi.
Với việc có ngay một trường thể nghiệm là
báo chí và xuất bản, từ nay nghệ
thuật viết truyện thoát ly hẳn lối kể truyền miệng mà tìm tới một mặt bằng phô
diễn mới là trang giấy trắng.
Trên các trang sách giờ đây không còn lồ lộ bóng hình người đứng ra kể chuyện như xưa mà lúc này vai trò của tác giả là dựng nên
khung cảnh để người đọc như được nhập ngay vào không khí trong truyện.
Hình thức tự sự cũng ngày càng trở nên
phức tạp, điều này có thể thấy rõ ở hai điểm:
một
là thay cho lối kể trước sau tuần tự
dễ gây cảm giác tẻ nhạt, thời nay các tác
giả thường hay nhảy ngay vào giữa sự
kiện mà miêu tả để gợi không khí tiếp đó mới quay về những nguyên nhân ban đầu ;
và hai là không lan man rải ra mỗi
chỗ một tí mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện có tính cách tiêu biểu, nhờ thế
cái nhìn của độc giả tập trung hơn mà cũng sâu sắc hơn.
Thử đọc
lại truyện Cô hàng xén của
Thạch Lam. Câu chuyện bắt đầu bằng cảnh cô Tâm đi chợ về tiếp đó mới ngược lên kể gia cảnh nhà nàng và
vai trò của nàng trong gia đình. Rồi tiếp theo đó là chuyện cô Tâm lấy chồng và
phải đảm đang công việc bên nhà chồng . Nhưng tất cả những chuyên này được lướt qua rất nhanh để cuối cùng nhấn
mạnh cái ý đời nàng ngày một khó khăn vất vả hơn và cuộc sống cứ thế mà kéo dài
mãi.
Đọc loại truyện này, với tư cách
người đọc của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta không lấy làm lạ. Nhưng đối chiếu với thi
pháp tự sự thời trung đại phải nhận đây
là cả một bước rẽ ngoặt.
Phương thức tự sự này đã hình thành ở
phương Tây từ nhiều thế kỷ trước, đến thế kỷ XIX thì trở nên thành thục, các
nhà văn Việt Nam đã học được rất nhanh để tạo ra một chuyển biến mới cho đời
sống văn học, và chỉ cần nhìn vào sự trưởng thành của tiểu thuyết đủ hiểu nghệ thuật tự sự ở
Việt Nam thế kỷ XX đã thay đổi như thế
nào.
Trường hợp của ViệtNam
cũng là trường hợp của nhiều quốc gia khác ở phương Đông bao gồm từ các nước A
rập tới các nước ở Đông Nam Á và cả Trung
quốc.
Trường hợp của Việt
VII
Thế nhưng trong khi vận dụng phương thức
tự sự mới, những đặc điểm riêng trong tư duy tự sự của VN các thế kỷ trước vẫn bộc lộ, như những cá tính ở một con người, dù
hoàn cảnh có thay đổi đến đâu thì những
nết xưa vẫn giữ mãi.
Khi bàn về tiểu thuyết VN, các nhà
văn ở ta thường nhấn mạnh tới tính chất
gọn ghẽ cô đúc của nó, nét nó thanh (chữ của Nguyễn Công Hoan), các đường dây phát triển của nó rành mạch.
Thực tế là khoảng đến 90% tiểu thuyết Việt
Nam là những cuốn sách ba bốn trăm trang khổ 13.19.
Xưa đã không có những pho nọ pho kia thì
ngày nay cũng rất hiếm những tiểu
thuyết trên dưới ngàn trang.
Vả chăng cái tư duy tự sự trong cuốn sách mới là chuyện đáng nói.
Có thể gọi những Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Sóng gầm của Nguyên Hồng là những bộ trường thiên tiểu thuyết viết theo thể roman fleuve trong nghệ thuật tự sự phương Tây.
Đọc cả hai, người ta nhớ tới Tam quốc Thủy hử thì ít mà nhớ tới Gia đình họ Thibault của R.Martin du Gard hoặc Con đường đau khổ của A.Tolstoi thì nhiều hơn. Có điều, chúng mới nổi ở chỗ được triển khai theo chiều rộng kèm theo một khối lượng nhân vật lớn mà chưa thể nói là đạt tới một trình độ mới trong việc bao quát hiện thực.
Có thể gọi những Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Sóng gầm của Nguyên Hồng là những bộ trường thiên tiểu thuyết viết theo thể roman fleuve trong nghệ thuật tự sự phương Tây.
Đọc cả hai, người ta nhớ tới Tam quốc Thủy hử thì ít mà nhớ tới Gia đình họ Thibault của R.Martin du Gard hoặc Con đường đau khổ của A.Tolstoi thì nhiều hơn. Có điều, chúng mới nổi ở chỗ được triển khai theo chiều rộng kèm theo một khối lượng nhân vật lớn mà chưa thể nói là đạt tới một trình độ mới trong việc bao quát hiện thực.
Theo ý chúng tôi loại như Nửa đêm của
Nam Cao hoặc Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp đáng chú ý hơn vì thời gian
được miêu tả trong mỗi truyện kéo dài tới mấy đời người, để rồi hé ra cho
thấy mối quan hệ oan nghiệt của các thế hệ trong một dòng họ. Đó là một cách
hình dung về sự liên tục của cuộc sống trên cõi nhân gian, một sự liên tục theo
chiều dọc vốn là ít thấy trong cách tư
duy của người bình thường ở ta, và lại càng ít khi được miêu tả trong văn
chương.
Cả hai loại truyện nói ở trên đều đang quá ít đến mức qua đây chưa thể nói gì về trình độ tự sự nói
chung của các ngòi bút văn xuôi. Do sự bao trùm của chiến tranh, sự lạc hậu của văn học VN nửa sau thế kỷ XX về mặt hình thức nghệ thuật là một sự lạc hậu tuyệt đối -- đây tôi chỉ giới hạn trong phần văn học Hà Nội. Còn ở Sài Gòn trước 1975, tình hình dù có khá hơn song cũng vẫn là chưa đáp ứng được nhu cầu của sự biểu hiện đời sống cũng như chưa hiện thực hóa được hết những khả năng mà thời đại mở ra cho chúng ta.
VIII
Một khía cạnh khác của nghệ thuật tự sự là
khả năng của người kể chuyện trong việc nhìn sâu nhìn kỹ vào một sự vật tả nó
ra một cách tỉ mỉ, tức cũng là khả năng dừng lại kỹ càng ở sự vật đó để tìm thấy cho mình một sự hứng thú trong việc
nhìn ngắm nó và cảm thấy ở nó một bí mật có thể tìm hiểu mãi mà không chán.
Khi bàn về Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Âu hoá một trí thức khá nổi
tiếng thời kỳ 1941-1945 là ông Đinh Gia
Trinh đã viết “...Văn chương Việt Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả
những niềm riêng của một người. Nó đi vào trong tâm người ta hơn là nó vơ ấp
lấy tạo vật. Tả tỉ mỉ một căn phòng một sắc trời một thân thể người như các nhà
văn tả chân bên Tây phương ? Không! Ở văn thuật Việt Nam khi xưa không có chỗ
cho tài nghệ của một nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành một trang sách để tả cái
mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin Pons, hoặc như
Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường, dán mắt ta qua khe cỏ để cho ta
mục kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước “ (9).
Về căn bản những nhận xét trên đúng với
nghệ thuật tự sự Việt Nam thời trung đại.
Bước sang thế kỷ XX, các nhà văn chúng ta
đã cho phép chúng ta nghĩ khác.
Có thể dẫn ra chân dung của những Chí Phèo
Thị Nở Lang Rận ở Nam Cao để thấy bây giờ con người đã nhìn kỹ vào gương mặt
của nhau nhiều hơn hoặc nhớ lại vài đoạn phân tích tâm lý của Nguyễn Tuân trong
các tập tuỳ bút để thấy văn chương đã tiến khá xa trong việc phanh phui đời
sống bên trong của mỗi cá thể.
Song phải nhận tình hình tiểu thuyết VN
hiện đại cũng giống như tình hình bên
hội hoạ. Người vẽ ở ta có vẻ thạo các loại phác hoạ hay màu nước hoặc thích làm
tranh sơn mài lộng lẫy. Còn như nghệ thuật sơn dầu đặc tả thật kỹ từng sắc thái
của sự vật, thì kinh nghiệm chưa nhiều và
hình như các hoạ sĩ cũng không thích làm
nữa.
Đi
sâu hơn vào kỹ thuật tự sự: trên thế giới ngày nay, bên cạnh lối trần thuật chỉ
sử dụng có một điểm nhìn bắt đầu thấy
thịnh hành lối tự sự có nhiều điểm nhìn. Đằng sau một chuyện thuần tuý
kỹ thuật như thế này là cả một triết lý; có vẻ như nhờ được nhìn từ nhiều góc
độ, thế giới hiện ra trong tác phẩm gần với thế giới thực hơn. Thế nhưng ngay ở thời điểm thế giới đã bắt sang một thiên niên kỷ
mới, kỹ thuật này với người trần thuật ở VN
và với đông đảo bạn đọc nói chung còn đang là một cái gì xa lạ. Người
viết văn ở ta không mấy khi bàn bạc kỹ với nhau về các vấn đề kỹ thuật nghề
nghiệp và đối với kỹ thuật tự sự thì tình hình cũng là tương tự.
IX
Tìm hiểu tư duy tự sự suy cho cùng tức là
tìm hiểu cách hình dung của mỗi dân tộc về cuộc đời với tất cả bề rộng và bề
sâu của nó mà họ có được trong quá trình sống, bởi vậy
nó còn liên quan đến ít nhất mấy khu vực nữa, một là khoa nghiên cứu lịch sử và hai là cách hiểu về cái thực đã trở thành truyền thống trong nền
văn học của dân tộc đó. Mà các phương
diện này ở ta thì thế nào ?
Nghề chép sử VN thời trung đại ít phát
triển và sự thực là mới chỉ có một vài bộ thông sử ghi chép hoạt động của các
triều đại các vua chúa, ngoài ra chưa có
sử hay đúng hơn gần như chưa bao giờ
nghĩ tới chuyện có những bộ sử đi vào các mặt sinh hoạt cụ thể các tầng lớp cụ thể, ví dụ lịch sử nghề nông,
lịch sử đê điều, lịch sử trí thức, lịch
sử tôn giáo....và hàng ngàn loại lịch sử khác như ở một nước cạnh ta là Trung
quốc họ đã làm.
Sang thời hiện đại, một số công việc loại
trên mới được bắt đầu song lại chẳng có tài liệu gì nhiều để làm việc.
Đến
như các loại lịch sử ăn mày, lịch sử
cờ bạc, lịch sử kỹ nữ... ( 10 ) chắc
chắn ở VN không ai dám nghĩ tới việc
viết như các đồng nghiệp ở Bắc
Kinh Thượng Hải.
Lâu nay trong quan niệm của ông cha ta đây là những sự thực không đáng ghi chép.
Mà người xưa đã vậ thì người hôm nay biết dựa vào đâu để viết ?
Và do chỗ hôm nay cũng không ai nghĩ chuyện ghi chép nên năm mươi năm sau cũng sẽ không ai viết nổi!
Lâu nay trong quan niệm của ông cha ta đây là những sự thực không đáng ghi chép.
Mà người xưa đã vậ thì người hôm nay biết dựa vào đâu để viết ?
Và do chỗ hôm nay cũng không ai nghĩ chuyện ghi chép nên năm mươi năm sau cũng sẽ không ai viết nổi!
Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh tới khoa chép sử
vì ở nhiều nước, thực tế lịch sử chính là cái nguồn vô tận cung cấp đề tài và
cốt truyện cho sáng tác văn chương.
Bởi
tự sự là kể về đời thực, cho nên
lẽ tự nhiên là quan niệm về cái thực của
một dân tộc có vai trò chi phối đối với nghệ thuật tự sự ở dân tộc ấy. Thành thử chỉ cần nhớ lại một
nhận xét cho rằng cái thực trong văn
chương cổ điển VN không phải là cái thực
khách quan mà là cái thực của
tâm do nhà nghiên cứu Trần Đình
Hượu nêu lên (11) thì người ta đã
có một điểm tựa vững chắc để giải thích
tình trạng yếu kém đơn điệu của nghệ
thuật tự sự ở VN thời trung đại và tình trạng phát triển ngập ngừng của nó
trong thời hiện đại. Cố nhiên đối với nghệ thuật trữ tình thì phải nhận định một cách khác.
Chú
thích
(1)Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên Văn
học dân gian, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp H. 1974, t.II, tr.70
(2)Nguyễn Hiến Lê Sử Trung quốc NXB Văn hoá H. 1997, t.I,tr. 351
(3)Pearl Buck,Lê Đình Chân dịch Tiểu thuyết Tàu, tạp chí Thanh Nghị 1944
từ số 83 trở đi
(4) Như (2),t.II,tr.67
(5) Đàm Gia Kiện chủ biên
Lịch sử văn hoá hoá Trung quốc
Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang Phan Văn Các
dịch NXB Khoa học xã hội H. 1993, tr.277
(6)Trương Ái Linh Hoa hồng trắng hoa hồng
đỏ, NXB Phụ nữ H. 2001, tr.7
(7)Chú ý là trong văn học cổ điển VN còn nhiều trường hợp có sự vay mượn cốt truyện từ văn học Trung quốc như Truyền Kỳ mạn lục, Ngọc Kiều Lê hoặc về sau một chút là Đào hoa ký...
(8)Câu chuyện trong Hoàng Lê nhất thống
chí có thể bao quát mấy đời vua và số lượng nhân vật ở đây cũng khá lớn. Nhưng
đây là do nhu cầu của việc ghi lại lịch sử chứ không liên quan đến tư duy tự sự.
(9)Đinh Gia Trinh Tính cách văn chương VN
trước thời Âu hoá tạp chí Thanh Nghị
1941 số 2-3,in lại trong Hoài vọng
của lý trí NXB Hội nhà Văn 1996,tr.27
(10)Đây là một xê-ri sách được NXB Trẻ TP
HCM cho in trong năm 2001, người khởi
xướng dịch và bắt tay trực tiếp dịch là nghà nghiên cứu Cao Tự Thanh.
(11)
Trần Đình Hượu Thực tại cái thực
và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học VN trung cận đại in trong
Nho giáo và văn học VN trung cận đại NXB Văn hoá thông tin H.1995
tr.443.
Đã
in trong Tự sự học , một số vấn đề lý
luận và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm H. 2004