Chùm bài Tết Canh Dần
Lúc này mà kể những chuyện buồn của Hà Nội chắc một số người...e ngại. Nhưng không chỉ riêng Nam Cao quan tâm tới Chuyện buồn giữa đêm vui ( đây là cái tên ông đặt cho một truyện ngắn). Mà đó là tâm trạng có ở nhiều người khi quay đầu đối diện với thời gian. Học theo cách nghĩ đó, tôi muốn nhắc lại một ít chuyện buồn đã đến với Thủ đô trong quá khứ để thêm vui với Hà Nội ngàn năm tuổi. Một tình yêu có nhiều trắc trở khó khăn, nhiều khi, lại mới là tình yêu sâu sắc.
Các nhà lịch sử Thủ đô thời nay thường chỉ ghi những ngày đẹp trời. Nhưng đọc một bộ sử giá trị bậc nhất của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, – theo tôi tầm vóc của nó đáng được so sánh cỡ như Truyện Kiều --, chúng ta đã có thể biết tới nhiều thời điểm buồn của Thăng Long. Thuở quân Nguyên xâm lược, từ năm 1285 đến năm 1288, ba lần giặc chiếm thành, vua quan và dân chúng ba lần rút khỏi kinh đô rồi ba lần trở lại. Cuối thời Trần, quân Chiêm Thành từ phía nam đánh lên đốt phá. Suốt chiều dài lịch sử, có thể đọc ra mức độ mọi biến động trong triều đình qua sự bám trụ của bộ máy quyền lực trong lòng Hà Nội. Hồ Quý Ly khi chuẩn bị chiếm ngôi, lập ra hẳn Tây Kinh ( để đối lập với Đông Kinh tức Đông Đô ) và cho rời xa giá về đó. Sau này, khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi, Thanh Hóa lại là căn cứ tạm thời của các thế lực phù Lê, và chiến công trở lại Đông Đô được nhắc lại kèm với những cái tên như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm để rồi mở đầu cho cả trăm năm nội chiến.
Buồn nhất là suốt cả thế kỷ XIX, nhà Nguyễn dời đô về Phú Xuân, biến Hà Nội thành nơi cố quận cũng là nơi mà những Ba Giai Tú Xuất mặc sức tung hoành.
Chỉ đến thế kỷ XX—theo những nguyên cớ nào mà tới nay chưa thấy ai có dịp lần lại -- chúng ta mới thấy Hà Nội như hôm nay chúng ta hay nghĩ. Hà Nội là nơi tụ họp tinh hoa bốn phương như người viết Chiếu dời đô năm 1010 ao ước. Hơn thế nữa, Hà Nội đảm nhận vai trò của một đầu mối, để trên con đường hiện đại hóa, người Việt tự làm mới mình theo những chuẩn mực thế giới.
Không phải chỉ là vai trò của trái tim đất nước như nhiều người vẫn nghĩ. Mà cùng với thời gian, từ ấy, Hà Nội còn vai trò của một bộ óc. Đằng sau cái được ngày hôm nay đã có không ít cái mất. Cái mất chốc lát và cái được lâu dài. Có vẻ như Hà Nội sở dĩ trở thành Hà Nội vì không gì có thể thay thế .
Một khía cạnh khác của chuyện Hà Nội được mất tôi muốn nói hôm nay liên quan tới quan niệm về người Hà Nội.
Bây giờ kể lại chắc nhiều bạn trẻ không tin, nhưng quả thật là trong ký ức của lớp dân Thủ đô kỳ cựu, có một giai đoạn nghĩ lại thấy hơi… buồn cười, cố nhiên là cười ra nước mắt. Đó là những năm 50-60 của thế kỷ trước. Từ những bài học trên ghế nhà trường và trong dư luận xã hội, điều mà lớp trẻ mới lớn lên những năm đó như chúng tôi tiếp nhận được là một cái gì hơi khó nói, phảng phất có ý phủ nhận. Hà Nội phải trở thành một thành phố của sản xuất. Trong khi đó, Hà Nội đã đóng quá lâu cái vai trò của một thành phố tiêu thụ, với bao nếp sống kẻ chợ hư hỏng. Thấp thoáng trong lòng mỗi người như là xấu hổ lại như là có lỗi. Chúng tôi không dám sống theo cái nếp thanh lịch mà các lớp người Hà Nội bao đời đã rèn rũa cho mình. Đóng vai trò chủ đạo của đời sống Hà Nội những năm ấy là lớp người mới nhập cư, những công dân Hà Nội thế hệ thứ nhất. Cùng với họ, một thứ khí hậu nông thôn bao trùm trong sinh hoạt ăn uống đi lại và trở thành một thứ chuẩn mực mà ngày hôm nay vẫn còn di lụy.
Tóm lại là thời ấy, khái niệm người Hà Nội nếu không bị phá vỡ thì cũng bị nhôm nhoam tầm thường hóa đi nhiều. Đấy là một cái mất rõ rệt, mặc dù nhiều khi người ta cũng không biết mất gì nữa: những mày nét khía cạnh của người Hà Nội lâu nay thực ra mới chỉ được cảm thấy chứ đâu đã được tổng kết .
Nhưng rồi cái được lại tới. Cùng với thời gian, chính lớp người mới nhập cư những năm ấy lại thấy nhớ tới Hà Nội hôm qua hơn cả. Quê quán tận đủ miền đất nước, song nay người ta bắt đầu thấy phải trả về cho Hà Nội cái tinh thần ngàn năm lịch sử tức cũng là cái Hà Nội được gạn lọc, Hà Nội của tinh hoa, trí thức, Hà Nội quý phái sang trọng, rút ra từ kinh nghiệm sống của bao lớp người nhập cư các thế kỷ trước. Một ý niệm mới về người Hà Nội lý tưởng bắt đầu hiện lên mờ ảo như một ước mơ, nhưng lại có thật như một tương lai sẽ đến.
Tôi thầm ước ao có lúc nào đó rồi người ta phải viết về những thăng trầm của Hà Nội như vậy -- thăng trầm như số phận của cái đẹp trong lịch sử. Giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ trước cũng là thời thịnh trị của nghệ thuật chèo ở Việt Nam. Hồi đó có một diễn viên rất chín trong nghề là bà cả Tam .Theo như sự phân tích của các nhà nghiên cứu chèo như Hà Văn Cầu, Trần Bảng thì trong diễn xuất của bà Cả có một cái gì lung linh huyền ảo. Có lần bà từng phát biểu một nguyên tắc làm nghề mà cũng là một nguyên tắc nhìn đời :” Trong cái được có cái mất, trong cái vui có cái buồn, trong cái vô vọng có cái hy vọng.” Nói theo chữ của triết học đó là một khái quát đầy chất biện chứng. Câu nói thường trở lại trong tâm trí tôi mỗi lần nghĩ về Hà Nội. Sự sang trọng của Thủ đô mà tôi nói ở trên đang được chiêu tuyết, gây dựng lại. Ít ra người ta cũng thấy nó là cần thiết, phải được mơ tới nghĩ tới.
Đã in báo Thời đại số tết Canh Dần-
Lúc này mà kể những chuyện buồn của Hà Nội chắc một số người...e ngại. Nhưng không chỉ riêng Nam Cao quan tâm tới Chuyện buồn giữa đêm vui ( đây là cái tên ông đặt cho một truyện ngắn). Mà đó là tâm trạng có ở nhiều người khi quay đầu đối diện với thời gian. Học theo cách nghĩ đó, tôi muốn nhắc lại một ít chuyện buồn đã đến với Thủ đô trong quá khứ để thêm vui với Hà Nội ngàn năm tuổi. Một tình yêu có nhiều trắc trở khó khăn, nhiều khi, lại mới là tình yêu sâu sắc.
Các nhà lịch sử Thủ đô thời nay thường chỉ ghi những ngày đẹp trời. Nhưng đọc một bộ sử giá trị bậc nhất của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, – theo tôi tầm vóc của nó đáng được so sánh cỡ như Truyện Kiều --, chúng ta đã có thể biết tới nhiều thời điểm buồn của Thăng Long. Thuở quân Nguyên xâm lược, từ năm 1285 đến năm 1288, ba lần giặc chiếm thành, vua quan và dân chúng ba lần rút khỏi kinh đô rồi ba lần trở lại. Cuối thời Trần, quân Chiêm Thành từ phía nam đánh lên đốt phá. Suốt chiều dài lịch sử, có thể đọc ra mức độ mọi biến động trong triều đình qua sự bám trụ của bộ máy quyền lực trong lòng Hà Nội. Hồ Quý Ly khi chuẩn bị chiếm ngôi, lập ra hẳn Tây Kinh ( để đối lập với Đông Kinh tức Đông Đô ) và cho rời xa giá về đó. Sau này, khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi, Thanh Hóa lại là căn cứ tạm thời của các thế lực phù Lê, và chiến công trở lại Đông Đô được nhắc lại kèm với những cái tên như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm để rồi mở đầu cho cả trăm năm nội chiến.
Buồn nhất là suốt cả thế kỷ XIX, nhà Nguyễn dời đô về Phú Xuân, biến Hà Nội thành nơi cố quận cũng là nơi mà những Ba Giai Tú Xuất mặc sức tung hoành.
Chỉ đến thế kỷ XX—theo những nguyên cớ nào mà tới nay chưa thấy ai có dịp lần lại -- chúng ta mới thấy Hà Nội như hôm nay chúng ta hay nghĩ. Hà Nội là nơi tụ họp tinh hoa bốn phương như người viết Chiếu dời đô năm 1010 ao ước. Hơn thế nữa, Hà Nội đảm nhận vai trò của một đầu mối, để trên con đường hiện đại hóa, người Việt tự làm mới mình theo những chuẩn mực thế giới.
Không phải chỉ là vai trò của trái tim đất nước như nhiều người vẫn nghĩ. Mà cùng với thời gian, từ ấy, Hà Nội còn vai trò của một bộ óc. Đằng sau cái được ngày hôm nay đã có không ít cái mất. Cái mất chốc lát và cái được lâu dài. Có vẻ như Hà Nội sở dĩ trở thành Hà Nội vì không gì có thể thay thế .
Một khía cạnh khác của chuyện Hà Nội được mất tôi muốn nói hôm nay liên quan tới quan niệm về người Hà Nội.
Bây giờ kể lại chắc nhiều bạn trẻ không tin, nhưng quả thật là trong ký ức của lớp dân Thủ đô kỳ cựu, có một giai đoạn nghĩ lại thấy hơi… buồn cười, cố nhiên là cười ra nước mắt. Đó là những năm 50-60 của thế kỷ trước. Từ những bài học trên ghế nhà trường và trong dư luận xã hội, điều mà lớp trẻ mới lớn lên những năm đó như chúng tôi tiếp nhận được là một cái gì hơi khó nói, phảng phất có ý phủ nhận. Hà Nội phải trở thành một thành phố của sản xuất. Trong khi đó, Hà Nội đã đóng quá lâu cái vai trò của một thành phố tiêu thụ, với bao nếp sống kẻ chợ hư hỏng. Thấp thoáng trong lòng mỗi người như là xấu hổ lại như là có lỗi. Chúng tôi không dám sống theo cái nếp thanh lịch mà các lớp người Hà Nội bao đời đã rèn rũa cho mình. Đóng vai trò chủ đạo của đời sống Hà Nội những năm ấy là lớp người mới nhập cư, những công dân Hà Nội thế hệ thứ nhất. Cùng với họ, một thứ khí hậu nông thôn bao trùm trong sinh hoạt ăn uống đi lại và trở thành một thứ chuẩn mực mà ngày hôm nay vẫn còn di lụy.
Tóm lại là thời ấy, khái niệm người Hà Nội nếu không bị phá vỡ thì cũng bị nhôm nhoam tầm thường hóa đi nhiều. Đấy là một cái mất rõ rệt, mặc dù nhiều khi người ta cũng không biết mất gì nữa: những mày nét khía cạnh của người Hà Nội lâu nay thực ra mới chỉ được cảm thấy chứ đâu đã được tổng kết .
Nhưng rồi cái được lại tới. Cùng với thời gian, chính lớp người mới nhập cư những năm ấy lại thấy nhớ tới Hà Nội hôm qua hơn cả. Quê quán tận đủ miền đất nước, song nay người ta bắt đầu thấy phải trả về cho Hà Nội cái tinh thần ngàn năm lịch sử tức cũng là cái Hà Nội được gạn lọc, Hà Nội của tinh hoa, trí thức, Hà Nội quý phái sang trọng, rút ra từ kinh nghiệm sống của bao lớp người nhập cư các thế kỷ trước. Một ý niệm mới về người Hà Nội lý tưởng bắt đầu hiện lên mờ ảo như một ước mơ, nhưng lại có thật như một tương lai sẽ đến.
Tôi thầm ước ao có lúc nào đó rồi người ta phải viết về những thăng trầm của Hà Nội như vậy -- thăng trầm như số phận của cái đẹp trong lịch sử. Giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ trước cũng là thời thịnh trị của nghệ thuật chèo ở Việt Nam. Hồi đó có một diễn viên rất chín trong nghề là bà cả Tam .Theo như sự phân tích của các nhà nghiên cứu chèo như Hà Văn Cầu, Trần Bảng thì trong diễn xuất của bà Cả có một cái gì lung linh huyền ảo. Có lần bà từng phát biểu một nguyên tắc làm nghề mà cũng là một nguyên tắc nhìn đời :” Trong cái được có cái mất, trong cái vui có cái buồn, trong cái vô vọng có cái hy vọng.” Nói theo chữ của triết học đó là một khái quát đầy chất biện chứng. Câu nói thường trở lại trong tâm trí tôi mỗi lần nghĩ về Hà Nội. Sự sang trọng của Thủ đô mà tôi nói ở trên đang được chiêu tuyết, gây dựng lại. Ít ra người ta cũng thấy nó là cần thiết, phải được mơ tới nghĩ tới.
Đã in báo Thời đại số tết Canh Dần-