VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Việt Nam 1954: Giữa 'Chiếm lĩnh' và 'Giải phóng', ký ức về một cuộc tiếp quản - Uyên T. Nguyễn

         Nguồn: Uyen Nguyen 

         https://www.facebook.com/share/p/17ZmQBFZPJ/

         ---

         Tác giả Uyen T. Nguyễn

Đại học Quốc gia Singapore


Tiến sĩ Uyên T. Nguyễn là một nhà sử học nghiên cứu về Việt Nam giai đoạn hiện đại. Cô hiện là Giảng viên tại Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Singapore (đến tháng 12 năm 2025) và từ tháng 1 năm 2026 sẽ đảm nhiệm vị trí Trợ lý Giáo sư Lịch sử và Ngôn ngữ & Văn minh Đông Á tại Đại học Harvard. Các công trình nghiên cứu của cô tập trung vào các quá trình chuyển đổi lịch sử thông qua những góc nhìn liên ngành và so sánh. Bài luận này dựa trên một phần nghiên cứu chuyên khảo của cô về quá trình tiếp quản đô thị ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1949-1958 với nhan đề Đô thị dấu yêu, Đô thị sa đọa: Cuộc tiếp quản của chính quyền cộng sản và những biến đổi xã hội chủ nghĩa ở các đô thị miền Bắc Việt Nam (1949-1958) [Beloved City, Depraved City: Communist Takeovers and Socialist Transformations in North Vietnam's Cities (1949-1958)].

 

--

Người cộng sản đã tiếp quản chính quyền vào năm 1954 như thế nào và có gì tương đồng với giai đoạn sau 30 tháng 4 năm 1975?

 

Sự sụp đổ của Sài Gòn trước lực lượng cộng sản tháng 4 năm 1975 thường được xem như một sự kiện độc nhất và mang tính quyết định trong cuộc Chiến tranh Việt Nam – một "cuộc chiếm lĩnh" bất ngờ hay một "sự kiện giải phóng", tùy theo góc nhìn của mỗi người.

 

Tuy nhiên, trên thực tế, các cuộc tiếp quản đô thị bởi các lực lượng cộng sản là một loại sự kiện đã xảy ra và lặp lại nhiều lần trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20.

 

Vào năm 1954 – hai thập kỷ trước biến cố nổi tiếng ở miền Nam – một cuộc chuyển giao kịch tính tương tự đã diễn ra khi lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) do Hồ Chí Minh lãnh đạo tiếp quản Hà Nội từ Quốc gia Việt Nam (État du Viêt Nam; QGVN) vốn được Pháp hậu thuẫn.

Luận văn này nhìn lại khoảnh khắc ấy, tập trung vào quá trình tiếp quản miền Bắc Việt Nam về mặt hành chính thông qua chuyển giao chuyên môn và chính trị hóa công sở, giáo dục và văn hóa.

 

Luận văn tập trung vào Hà Nội giai đoạn 1954-1960 với mục đích giúp cho các độc giả vốn quen thuộc hơn với các sự kiện ở Sài Gòn năm 1975 có thể đưa ra những so sánh và nhận định dựa trên trải nghiệm và kiến thức cá nhân – qua đó, tác giả muốn đưa ra gợi ý rằng trải nghiệm của thập niên 1950 đã định hình chiến lược và kỳ vọng của chính quyền cộng sản cho các đợt tiếp quản đô thị sau này, đặc biệt là Sài Gòn năm 1975.

 

Như vậy, thay vì nhìn nhận các cuộc tiếp quản như các sự kiện đơn lẻ hoặc như các điểm kết thúc của các cuộc chiến quân sự (với một bên thắng cuộc và một bên thua cuộc), chúng ta có thể nhìn nhận các sự kiện này như các diễn biến tuần tự trong một quá trình lâu dài, nơi mà cả chính quyền lẫn xã hội Việt Nam học cách giải quyết xung đột và chung sống sau chiến tranh – một quá trình vẫn còn tiếp diễn tới ngày nay.

 

Khúc khải hoàn của cuộc tiếp quản


Chính quyền Bắc Việt gọi cuộc tiếp quản Sài Gòn năm 1975 là một "khúc ca khải hoàn" – khi quân cộng sản giành chiến thắng và đưa miền Nam "trở về" với Tổ quốc. Nhưng "khúc ca khải hoàn" này đã được xướng lên hai lần trước đó. Tháng 8 năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, là lần đầu tiên chính quyền Hồ Chí Minh lên nắm quyền chính thức trên lãnh thổ Việt Nam – một cuộc chuyển giao chính quyền mà Hồ Chí Minh đã miêu tả trong Tuyên ngôn độc lập: "Dân ta đã lấy lại nước Việt Nam."

 

Sau Tuyên ngôn độc lập đó, chính quyền VNDCCH đã kiểm soát Hà Nội trong một thời gian ngắn trước khi quân Pháp quay trở lại vào năm 1946, và chính quyền QGVN được thành lập vào năm 1949. Khi cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc năm 1954, chính quyền Hồ Chí Minh gọi cuộc tiếp quản Hà Nội là một cuộc khải hoàn.

 

Tuy nhiên, trong lần "trở về" này, chính quyền VNDCCH không hẳn là chính quyền Việt Minh đã được lập nên vào năm 1945 – bởi phần lớn các thành viên không thuộc phe cộng sản đã bị loại bỏ từ lâu.

 

Thêm vào đó, số phận các thành phố lớn ở phía Bắc như Hà Nội và Hải Phòng đã được định đoạt tại Hội nghị Genève - có nghĩa là cuộc chuyển giao chính quyền tại các thành phố lớn không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy đô thị tự phát như lực lượng cách mạng đã từng kỳ vọng (giống như những gì đã xảy ra vào tháng tám năm 1945) – mà là một quá trình chuyển tiếp được dàn dựng và tiến hành một cách cẩn thận.

 

Nói cách khác, bản thân xã hội đô thị tiếp nhận sự "trở về" của chính quyền VNDCCH cũng không còn giống như chín năm trước đó.

 

Khi nhìn lại đại cảnh chia cắt Nam–Bắc trong 20 năm từ khi tiếp quản Hải Phòng (1955) đến khi Sài Gòn thất thủ (1975), người ta thường tập trung vào hai con đường phát triển khác nhau mà miền Bắc và miền Nam đã lựa chọn.

 

Nhưng chính các mô hình được thiết lập từ thập niên 1950 – cả ở miền Bắc cộng sản và miền Nam chống cộng – đã định hình bối cảnh cho hồi kết của cuộc chiến.

 

Ở cả hai thời kỳ, thập niên 50 và thập niên 70, các lãnh đạo cách mạng phải quản lý những thành phố mà dân cư còn hoài nghi hoặc dửng dưng với chủ nghĩa cộng sản và nơi nền nếp xã hội, hành chính, đời sống đô thị đã phát triển lâu đời với nguồn gốc ở các chế độ trước.

 

Nhà nước như một 'dinh thự'


Để hình dung quá trình chuyển giao quyền lực ở Hà Nội 1954, ta có thể mượn phép ẩn dụ mà Benedict Anderson đã sử dụng trong cuốn Cộng đồng tưởng tượng (Imagined Communities): nếu nhà nước và bộ máy của nó là một khu dinh thự, thì một chính quyền mới là chủ nhân mới, kế thừa dinh thự ấy từ chủ nhân cũ.

 

 Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, "dinh thự" ấy đã nhiều lần đổi chủ – triều Nguyễn, chính quyền thuộc địa Pháp, quân Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim, QGVN – và mỗi người chủ lại vận hành và thay đổi hạ tầng của dinh thự theo cách riêng.

 

Khi chính quyền VNDCCH tiếp quản Hà Nội năm 1954, họ kế thừa từ QGVN một bộ máy hành chính khá hoàn chỉnh với đội ngũ công chức Việt chuyên nghiệp, và giống như các chủ nhân trước đó, họ không phá bỏ dinh thự mà tìm cách làm chủ nó.

 

Dù chính quyền cách mạng thường nói về sự lột xác hoàn toàn, trên thực tế, quá trình chuyển giao thường giống như kỹ thuật "ghép cành" trong làm vườn: chính quyền mới không loại bỏ hoàn toàn bộ máy cũ mà ngược lại, "ghép" mình lên cấu trúc của bộ máy cũ – một tiến trình phức tạp và đôi lúc đầy khó khăn.

 

Sự chuẩn bị kỹ lưỡng và bối cảnh đặc biệt


Như đã nói ở trên, việc tiếp quản Hà Nội năm 1954 không hề bất ngờ. Sự kiện này xảy ra nhiều tháng sau Hiệp định Genève, qua đó, bộ máy Pháp-QGVN rút lui theo lịch trình được định sẵn, giúp cho phía VNDCCH có thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng. Không giống các lần chuyển giao chính quyền trước Hiệp định (thường gấp gáp và thiếu chuẩn bị), cuộc chuyển giao năm 1954 ở Hà Nội cũng được xây dựng trên kinh nghiệm từ nhiều cuộc chuyển giao trước đó ở các thành phố nhỏ hơn ở miền Bắc, và thường được nhiều người nhớ đến bởi sự kỷ luật và quy củ.

 

 

Từ tháng chín đến tháng mười năm 1954, chính quyền VNDCCH đã thống nhất ba nguyên tắc ưu tiên trong kế hoạch tiếp quản hành chính đô thị: (1) ưu tiên lập lại trật tự, ổn định đời sống; (2) giữ lại tối đa đội ngũ kỹ thuật, công chức của Pháp-QGVN; và (3) "ghép cành" có chiến lược lên bộ máy cũ.

Một tài liệu Bộ Nội vụ năm 1954 nêu rõ:

"Đối với các cơ quan chuyên môn ta chưa tổ chức bộ máy như Kinh tế, Canh nông,… hoặc đã có nhưng còn rất yếu như Y tế, Bưu điện, lúc đầu ta chỉ cử cán bộ chỉ huy vào lãnh đạo điều khiển bộ máy cũ của giặc. Trừ những tên có tội nặng theo chủ trương phải trừng trị, còn ta vẫn giữ nguyên hiện trạng bộ máy cũ: những người phụ trách cấp bộ nào vào cấp bộ ấy. Dần dần, ta sẽ đưa người của ta vào."

(Kế hoạch thu hồi công sở của địch, Bộ Nội vụ 3627, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)

Như các câu chuyện dưới đây cho thấy, cuộc chuyển giao thực tế phức tạp hơn nhiều. Định hướng của trung ương va chạm với thực tế, khả năng kỹ thuật, tâm tư cá nhân, tham vọng cách mạng và tác động bất thường của chính trị.

 

Ba cuộc đời trong giai đoạn chuyển tiếp


Những ký ức dưới đây – của một cán bộ trẻ, một công chức lưu dung, và một người cách mạng nằm vùng – hé lộ ba góc nhìn khác nhau về một thời kỳ chuyển giao đầy mâu thuẫn và biến động (tên nhân vật đã được thay đổi).


1. Phan Việt: Cán bộ trẻ và quá trình học nghề


Phan Việt sinh năm 1935 và lớn lên tại Thái Nguyên. Ông được đào tạo trong cả hệ thống giáo dục thuộc địa lẫn hệ thống VNDCCH. Đầu năm 1954, đang là một sinh viên trẻ đang học tập ở Trường Giao thông Công chính VNDCCH, ông được điều động làm đường dây liên lạc cho chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi tiếp tục được điều về nhóm tiếp quản Bưu điện Hà Nội.

 

 

Là một trong số ít cán bộ được đào tạo ngành bưu chính, Phan Việt nhớ lại, trong số cán bộ VNDCCH tiếp quản Bưu điện có rất nhiều người "thất học", "thậm chí còn chưa biết đọc biết viết". Quan hệ ban đầu giữa cán bộ VNDCCH với nhân viên cũ của Pháp-QGVN bề ngoài "bình thường" và "lễ phép", nhưng ông cũng mô tả sự chia rẽ về mặt tâm lý:

"[…] những người lưu dung ấy, người ta đối xử luôn luôn rất khiêm tốn, vì người ta cũng mặc cảm vì người ta là người thất bại, bây giờ là lưu dung. Nên là không có điều gì người ta làm quá lên cả.

Còn về phía kẻ chiến thắng thì trong đầu luôn luôn có chút gì đấy có vẻ khinh thường, coi thường người ta. Coi trọng người ta chẳng qua vì người ta có nghề, rồi khi mà mình đã ăn cắp được nghề của họ, mình vững vàng rồi, thì mình không sử dụng người ta nữa."

 

 

Đó là giai đoạn hợp tác "bất đắc dĩ": chính quyền mới phải học hỏi bí quyết kỹ thuật từ những người mà họ không mấy tin cậy về mặt chính trị. Phan Việt thừa nhận đã học nghề từ các nhân viên lưu dung mà theo cảm nhận cá nhân của ông, đều là những người "được đào tạo rất nghiêm túc" và có tư cách và đạo đức "tuyệt vời". Quá trình chuyển giao kỹ thuật diễn ra theo mô hình lan tỏa: nhân viên cũ dạy cho cán bộ mới, những người này lại dạy tiếp cho người khác. Chỉ khi một số lượng cán bộ tin cậy đã được rèn luyện đầy đủ, các nhân viên cũ mới bắt đầu bị loại bỏ.

 

 

2. Nguyễn Hiếu: Công chức lưu dung

Câu chuyện của Nguyễn Hiếu đến từ phía bên kia của quá trình chuyển giao kỹ thuật sau tiếp quản. Sinh năm 1928 trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, Nguyễn Hiếu tốt nghiệp trung học và sớm tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi bị quân Pháp bắt trong vùng tự do và giam tại Hỏa Lò một thời gian, ông ở lại Hà Nội, theo học trường Y rồi trở thành bác sĩ ở Bệnh viện Yersin (sau là Bệnh viện Phủ Doãn).

 

 

Khi quân cộng sản tiếp quản Hà Nội, Nguyễn Hiếu thuộc nhóm công chức lưu dung và ông biết chính quyền mới không tin tưởng mình: "Trước thì [tôi] là người theo cách mạng, về lại Hà Nội rồi thì thành ngụy." Ban đầu, cuộc sống của những người ở lại vẫn diễn ra bình thường. Nhưng chỉ vài tháng sau, như tất cả các cựu công nhân viên khác của chính quyền QGVN, Nguyễn Hiếu bị đưa đi "học cách mạng" một năm – chương trình gồm học lý thuyết chính trị và đi thực tế tham gia cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở nông thôn. Đi về Phủ Lý, ông bị sốc trước sự tàn bạo của CCRĐ và từ niềm tin cách mạng lưu giữ từ những năm 40, ông dần nhận ra sự khắc nghiệt của chế độ mới:

"Sợ lắm, cải cách ruộng đất, sợ. Lúc bấy giờ thì mình vẫn chưa tỉnh, chưa tỉnh ngộ, nhưng về sau đi sâu cải cách ruộng đất thì sợ, thì mới thấy tại sao lại như thế, giết người vô lý. […] Chết nhiều lắm. Sau cải cách ruộng đất thì mới có nhiều cái suy nghĩ, lúc bấy giờ người ta mới hiểu ra […] cái chính quyền của mình là cái chính quyền vô sản, cái nền chuyên chính vô sản kinh khủng lắm, nó không có mức độ nào cả, anh có thể sống, anh có thể chết lúc nào không biết."

 

 

Khi nhà nước VNDCCH không còn cần chuyên môn của hệ thống công chức và kỹ thuật viên của chính quyền QGVN nữa, những người như Nguyễn Hiếu bị giáng chức hoặc loại bỏ khỏi bộ máy; đa số "tự nguyện" chuyển xuống mức lương thấp hơn, một số ít vào các trường dạy nghề, còn lại được cho "nghỉ hưu non". Nguyễn Hiếu trở thành kỹ thuật viên phòng X-quang – vị trí thấp hơn nhiều trình độ của ông.

 

 

3. Nguyễn Văn: Người cách mạng nằm vùng

Không phải tất cả những người công chức VNDCCH (được ghép vào bộ máy cũ cùng các công chức lưu dung từ chính quyền cũ) đều là những người mới tới Hà Nội lần đầu. Nguyễn Văn sinh năm 1925, lớn lên ở khu phố cổ Hà Nội trong một gia đình Công giáo. Ông tốt nghiệp tú tài hệ giáo dục thuộc địa, học nhạc, và vào đầu những năm 40 thì tham gia Việt Minh với công việc phát truyền đơn và tổ chức các hoạt động bí mật.

 

 

Sau một thời gian hoạt động trong vùng tự do sau năm 1946 và bị Pháp bắt, Nguyễn Văn trở về Hà Nội làm cán bộ nội ứng. Những tuần cuối trước tháng 10 năm 1954, ông được điều động để vận động nghệ sĩ, công chức, công nhân ở lại làm việc với chính quyền mới, chuẩn bị cho lễ tiếp quản công khai.

 

 

Sau tiếp quản, dù thuộc phía "người thắng cuộc", Nguyễn Văn cũng nhận thấy nhiều bạn bè trong khu phố của mình biến mất trong năm đầu tiên của chính quyền mới – di cư vào Nam hoặc bị thất thế. Sau khi chính thức tham gia vào chính quyền mới với vai trò giáo viên âm nhạc tại trường Chu Văn An và sau đó là trường Sư phạm Hà Nội, ông đối mặt với thực tế mới: "chính trị hóa giáo dục" được đặt lên hàng đầu – học sinh "chỉ học về Đảng", các nhạc sĩ "phải sáng tác ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ"; ai không phục tùng sẽ "không nhấc đầu lên nổi."

 

 

Ngay cả những người cộng sản tâm huyết cũng vỡ mộng khi chứng kiến những giới hạn của lý tưởng chính trị. Nguyễn Văn cùng các cán bộ nội ứng khác bị đưa đi "cải tạo" ở nông thôn.

Tận mắt chứng kiến CCRĐ, Nguyễn Văn nhận ra "sự tàn nhẫn và bất công của Đảng Cộng sản" và bị tổn thương sâu sắc. Trước chuyến đi học cải tạo, Nguyễn Văn đã được mời học cảm tình Đảng, nhưng sau chuyến đi, ông quyết định không vào Đảng, dù vẫn tiếp tục làm làm việc tại Đại học Sư phạm Hà Nội và học cách thích nghi để tồn tại. Từng là người chiến thắng, ông trở thành kẻ quan sát im lặng trong một xã hội ngày càng khép kín.

 

 

Những mâu thuẫn sau ngày tiếp quản


Nếu quan hệ giữa "người thắng" – các cán bộ cách mạng và "kẻ thua" – các nhân viên chính quyền cũ được định hình bởi sự nghi kỵ, thì trong nội bộ "người thắng cuộc" cũng đầy cạnh tranh, so bì. Cán bộ từ "vùng tự do" – từng sống trong vùng rừng núi thời chiến – coi nhẹ mạng lưới thành thị như Nguyễn Văn, gọi họ là "bọn cách mạng Hồ Gươm" – một cách gán nhãn khiến không ít người cảm thấy bị hạ thấp, dù họ cũng từng liều mạng vì lý tưởng. Nguyễn Văn bức xúc nhưng không dám công khai phản đối:

"Chỉ họ mới làm cách mạng? Họ có biết rằng nếu [quân Nhật] bắt được tôi mang tư liệu, truyền đơn, báo chí, bản tin, bài hát bán lấy tiền gây quỹ cho Thanh niên Thành Hoàng Diệu […] nó để tay, rồi chặt cả bàn tay luôn. Có nguy hiểm, có đáng sợ không? Nhưng có những kẻ tự cho mình là anh hùng hơn, nói khinh miệt: 'bọn cách mạng Hồ Gươm ấy mà'."

 

 

Sự bất phục càng sâu sắc hơn khi lý lịch cách mạng trở thành tiêu chuẩn cho quyền lợi và đặc quyền. Phan Việt, sau khi trở thành cán bộ kỹ thuật tại Bưu điện Hà Nội, cũng bị ảnh hưởng bởi phong trào chống tư tưởng "tạch tạch sè" ("tiểu tư sản") vì ông biết đọc viết, biết tiếng Pháp, và thích đọc sách vào thời gian rảnh. Đây không phải là lần duy nhất Phan Việt cảm thấy bức xúc với tình hình chung, nhưng ông cũng đã ngầm hiểu rằng nói ra ý kiến của mình chỉ mang lại rắc rối và nguy hiểm cho bản thân:

 

"[…] mình cũng phải thích nghi theo môi trường để tồn tại [...] mặc dầu mình có ý nghĩ gì hơi khác thì mình cũng để im thôi, chứ mình không dám chống đối, cái đấy là cái bản năng thôi."

 

 

Sự ganh đua âm thầm giữa người trong cuộc cho thấy rằng cách mạng không chỉ là cuộc đổi thay quyền lực, mà còn là cuộc thử thách đạo đức và niềm tin của chính những người đã giành được chiến thắng.

 

 

Kết luận:

 Di sản của quá trình chuyển đổi quyền lực

Khi đoàn người chiến thắng tiến qua những con phố Hà Nội vào mùa thu năm 1954, quyền uy mới không tự nhiên xuất hiện từ niềm vui của đoàn quân chiến thắng hay tiếng hò reo của đám đông. Dù chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ, ảnh hưởng về mặt hành chính – xã hội của liên minh Pháp-QGVN chưa mất ngay; quyền lực phải được tái thiết từng chút dựa trên bộ máy và con người của chế độ cũ.

 

Việc chính quyền cộng sản tiếp quản "dinh thự" nhà nước từ bộ máy QGVN và Pháp cũng chứng tỏ rằng một cuộc tiếp quản không đánh dấu một sự đứt gãy ý thức hệ hoàn toàn. Thay vào đó, tiếp quản và thiết lập bộ máy nhà nước là quá trình phức tạp, diễn ra không đồng đều, với nhiều tranh chấp ngầm – cái cũ và mới, trật tự và biến chuyển, nghi ngờ và hợp tác cần thiết được cân bằng một cách thận trọng.

 

Hai mươi năm sau, khi đoàn xe tăng tiến vào Sài Gòn, dù không thể chuẩn bị kỹ lưỡng như cuộc tiếp quản Hà Nội năm 1954, nhiều người trong bộ máy cách mạng đã thuộc lòng kịch bản Hà Nội 1954 – từ cách tiếp quản cơ quan, trấn an dân chúng đến việc "ghép cành" vào bộ máy cũ, rồi thanh lọc và siết chặt tư tưởng.

 

Trải nghiệm Hà Nội 1954-1960 nhắc chúng ta rằng thay đổi chế độ là quá trình lâu dài, và những người sống qua giai đoạn chuyển biến đó có những thái độ và cách hành xử khác nhau: mặc cả, oán giận, hợp tác, và đôi khi chỉ là im lặng chịu đựng để tồn tại.

 

 Khi cách mạng mới kế thừa "hạ tầng" của quá khứ, thách thức lớn nhất không nằm ở việc tuyên truyền khẩu hiệu "giải phóng" hay "chiếm lĩnh", mà là ở việc quản trị thực tiễn. Nhìn lại, di sản của cuộc tiếp quản miền Bắc năm 1954 không chỉ là bài học về quyền lực, mà còn là lời nhắc rằng giữa "chiếm lĩnh" và "giải phóng", điều khó nhất không phải là chiến thắng, mà là học cách cùng tồn tại trong hòa bình.

 

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn