Trong một lần gặp gỡ một nhóm
sinh viên trẻ ở Hà Nội vài năm trước, tôi hỏi các em: Trong xã hội Việt Nam
ngày nay, đặc biệt là trong lãnh vực văn hoá, các em ngưỡng mộ ai nhất? Và tôi
ngạc nhiên khi chẳng em nào trả lời tôi được! Nhớ lại hồi còn trẻ, tôi có thể
kể năm bảy người mà tôi ngưỡng mộ, những Đào Duy Anh, những Nguyễn Mạnh Tường,
những Trần Đức Thảo, những Hoàng Xuân Hãn, những Nguyễn Hiến Lê… Còn ngày
nay? Có thể chăng chúng ta đang sống trong thời vắng những nhà văn hoá lớn?
Thế nào là một nhà văn
hoá lớn?
Đâu rồi
những nhà văn hóa lớn của dân tộc?
Tất nhiên,
xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực)
vào hoạt động văn hoá trong lãnh vực này hoặc lãnh vực nọ… Song, những nhà văn
hoá lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã
hội nào, lúc nào cũng có những nhà văn hoá như thế. Đó là những người mà sự
uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng suất
làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chằng hạn)
hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính
thời đại của một nền văn hoá. Nhà “văn hoá lớn”, nói cách khác, là người có
những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng
hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử và văn học, triết học và nhân chủng học),
không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào. Nhà văn hoá lớn là người có
những ý tưởng độc đáo, hoặc có biệt tài tổng kết nhiều luồng tư tưởng khác
nhau, từ nhiều lãnh vực khác nhau. Người ấy luôn luôn bám chặt vào những tiêu
chuẩn học thuật cao nhất. Qua công việc nghiên cứu của họ, họ khơi dậy sự quan
tâm, nâng cao trình độ thảo luận về những vấn đề lịch sử, xã hội, văn minh… nói
chung là văn hoá.
Một nhà văn hoá lớn còn phải là
một nhà văn hoá dấn thân, nghĩa là, dù tư tưởng của họ có trừu tượng đến mấy,
sự chọn lựa chủ đề của họ, hoặc cách tiếp cận chủ đề ấy, luôn luôn có một khiá
cạnh nhân bản, hoặc là xuất phát từ những sự trăn trở đối với những vấn đề căn
bản của xã hội, của con người (đặc biệt là, nếu hoàn cảnh bắt buộc, những vấn
đề liên hệ đến tự do và nô lệ, đến chiến tranh và hoà bình). Nếu đã được đào
luyện như là nhà khoa học, một nhà văn hoá lớn có trách nhiệm suy nghĩ về tính
nhân văn, tính xã hội của ngành khoa học ấy. Văn hoá, tự thân, là một hiện
tượng công cộng. Nhà văn hoá lớn có khả năng khuếch trương tính công cộng của
khoa học mà không hi sinh chuẩn mực học thuật. Một nhà văn hoá lớn cống hiến
cho xã hội một hệ tư tưởng, nhất là trong lãnh vực xã hội và nhân văn, có khả
năng khuấy động những trao đổi, đóng góp của những người khác trong lãnh vực
ấy, và qua đó, làm giàu cho sinh hoạt tư tưởng của xã hội.
Nhà văn hoá lớn ngày nay cần
phải theo dõi khít khao các luồng tư tưởng về văn hoá, chính trị, kinh tế… thế
giới, bởi thế khả năng ngoại ngữ là cần thiết. Tuy nhiên, một nhà văn hoá lớn
Việt Nam phải là người nhìn những luồng tư tưởng ấy qua lăng kính dân tộc và
văn minh của người Việt Nam. Nói khác đi, một nhà văn hoá lớn phải đặt vấn đề
văn minh của dân tộc (dù chỉ để phủ nhận nó, nếu muốn!) làm một trọng điểm của
ý thức. Kiến thức là thiết yếu, nhưng một nhà văn hoá lớn phải đem kiến thức ấy
phục vụ mục đích nhân văn. Nhà văn hoá lớn ngày nay phải thấm nhiễm tư duy
“toàn cầu hoá” nhưng cũng phải có một thái độ rạch ròi về hậu quả của hiện
tượng này đến những vấn đề quốc gia và dân tộc.
Những nhà văn hoá lớn là những
ngôi sao đặc biệt sáng ngời trong bầu trời có thể đã rất nhiều sao. Những nhà
văn hoá lớn không nhất thiết là những thiên tài bẩm sinh (thậm chí, họ càng
đáng nễ phục, càng nhiều ảnh hưởng, nếu công trình văn hoá của họ là do sự kiên
trì nghiên cứu, tự học…). Một nhà khoa học xuất chúng có thể đáng ngưỡng
mộ nhưng chưa chắc đã là một nhà văn hoá lớn theo nghĩa ở đây.
Tại sao chúng ta thiếu
những nhà văn hóa lớn?
Nếu định nghĩa những nhà văn
hoá lớn theo cách đó thì rõ ràng là chúng ta, hiện nay, rất thiếu những nhà văn
hoá lớn.
Nhiều người sẽ đổ lỗi cho xã
hội. Xã hội không bồi dưỡng những nhà văn hoá nói chung thì làm sao có những
nhà văn hoá lớn? Sự thiếu tôn vinh này quả là đáng tiếc nhưng chưa đủ để
giải thích sự thưa vắng những nhà văn hoá lớn, vì sự thực là, như lịch sử cho
thấy, đại đa số những ngưòi này không làm việc vì tiền, hay để được xã hội tôn
vinh, khen ngợi. Họ cật lực suy nghĩ, viết lách, giảng dạy… vì một sự thôi thúc
nội tâm, không phải vì những phần thưởng từ bên ngoài. Thậm chí, nhiều người
hãnh diện vì đời sống “khổ hạnh” của mình.
Giả thuyết thứ hai, liên hệ đến
giả thuyết thứ nhất, nhưng có vẻ thuyết phục hơn. Dường như ngày càng nhiều
phát giác những vụ đạo văn, những vụ lừa bịp, nói chung là những hành động
thiếu đạo đức của một số người đã có thời được xem là những “đại thụ văn hoá”.
Có thể giải thích rằng những hành động thiếu đạo đức ấy là sự sa ngã do cám dỗ
của một xã hội quá trọng vật chất. Những người đáng lẽ là “anh hùng” té ra lại
có những cặp chân bằng đất sét.
Bởi vậy, sự thiếu vắng những
nhà văn hoá lớn, tôi nghĩ, chỉ phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược
điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hoá lớn). Oái oăm
là, như vẫn thường nói, “thời thế tạo anh hùng”, thì “thời thế” ngày nay không
đến nỗi quá bức xúc để anh hùng “đứng lên”. Cái “lỗi” của xã hội hiện tại không
phải vì nó tích cực trù dập những hạt giống văn hoá lớn, nhưng ở sự làng nhàng,
sự tầm thường tẻ nhạt cuả nó. Các vấn đề căn bản của xã hội, của con người, đòi
hỏi những công trình văn hoá dài hạn, song những “khích lệ” cho các công trình
văn hoá trong xã hội ngày nay, nếu có, lại có tính ngắn hạn. Có một sự so le
giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng văn hoá.
Nhiều người sẽ cho rằng sự
thiếu vắng những trí thức lớn còn có một nguyên do khác, rằng một người trí
thức “công cộng” phải được phép tự do phát biểu. Một việc còn rất hạn chế trong
hoàn cảnh hiện nay. Nhưng theo tôi, yếu tố thật cần là những cuộc tranh luận,
nghĩa là cần những nhà văn hóa lớn khác, và những cuộc tranh luận đó phải bình
đẳng, tôn trọng những tiêu chuẩn học thuật phổ quát. Trong tranh luận văn hoá,
không ai được quyền dựa vào một thế lực nào ngoài văn hoá.
Có thể rằng, là một nhà văn hoá
lớn ngày nay cần có những kiến thức, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và kiến
thức về sinh hoạt văn hoá toàn cầu, hơn bao giờ hết. Nhưng không hẳn là như
vậy: có cả vạn người, hàng ngày luớt web khắp thế giới, nhưng chưa bao giờ thực
sự là nhà văn hoá. Những thông tin họ biết là hời hợt, nông cạn. Bởi vậy, cái
nghịch lý của nhà văn hoá lớn ngày nay là phải vừa biết nhiều, nhưng không cần
biết hết, mà phải biết sâu. Phải biết tổng hợp những điều mình nghe thấy với
những suy nghĩ của riêng mình. Đây cũng có thể là một lý do của sự thưa vắng
những nhà văn hoá lớn, tuy số “trí thức khoa bảng” thì ngày càng nhiều: Với sự
chuyên biệt hóa ngành học, ngày càng hiếm đi những người thông thạo nhiều ngành
khác nhau, có đủ sức tổng hợp thành một hệ thống tư tưởng độc sáng.
Ngôi sao chỉ đường cho
văn hóa xã hội
Xác nhận sự thiếu vắng những
nhà văn hoá lớn là một việc, kết luận rằng đó là một sự kiện đáng quan ngại lại
là một việc khác! Bởi, có người sẽ hỏi: tại sao chúng ta cần những nhà văn hoá
lớn? Chúng ta có rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư mọi ngành cần thiết cho
sự phát triển của đất nước (và chúng ta không bao giờ thiếu những nhà thơ, nhà
văn!). Như vậy không đủ sao? Tôi nghĩ là không đủ. Đúng là chúng ta cần
phát triển kinh tế, cần cơm ăn áo mặc, cần một đời sống văn hoá không đến nỗi
nghèo nàn… Nhưng chúng ta cũng cần những tinh hoa vượt trội. Dù bầu trời đã lấp
lánh muôn sao, chúng ta vẫn cần những ngôi sao thật sáng. Đó là những ngôi sao
chỉ đường, bởi lẽ một xã hội phải biết hướng tiến cho văn hoá của xã hội ấy.
Nhưng tầm vóc của một nhà văn
hoá không phải ngày một ngày hai mà có đuợc. Hãy hi vọng rằng ngay giờ phút này
đây đang có những nhà văn hoá trẻ miệt mài xây dựng sự nghiệp văn hoá của mình.
Cho những ngưòi trẻ này, vào những ngày xuân hôm nay, chúng ta nâng ly chúc
mừng và chúc các bạn kiên trì, may mắn, cho bạn, mà cũng cho chúng ta.