Lời dẫn :
Qua
trang Sơn Hoàng Vũ, tôi tìm thấy bài viết mang tên « Mặt trái của Hà
Nội » của Tuệ Phong, mặc dầu không biết tác giả là ai, nhưng đọc thấy nhiều điều có thể chia sẻ. Sau đó đọc trang riêng của Tuệ Phong lại thấy có
bài viết riêng về truyện ngắn « Những người muôn năm cũ » của Nguyễn
Huy Thiệp. NHT đang nằm trong chủ đề tôi theo đuổi và muốn sưu tầm. Xin đăng lại cả hai
bài dưới đây.
---
MẶT TRÁI CỦA HÀ NỘI
“Tôi rất yêu Hà Nội, nhưng có những cái ở Hà Nội bây giờ thì không thế
chấp nhận được".
*
Nói về văn hóa của người Hà Nội ngày nay cũng có nghĩa là bàn về việc
người ta đã có đủ văn hóa để làm người Hà Nội hay không. Nghe thì có vẻ không
lọt tai, nhưng với thời đại ngày nay thì quả đúng là như vậy.
Bấy lâu nay người ta hay nói đến cụm từ "Người Hà Nội", hoặc
những người đang sống trên mảnh đất Hà Nội (nội thành) không ít người luôn tự
nhận mình là người Hà Nội và lấy làm hãnh diện về điều đó.
Ở nước ngoài, nhiều người Việt khi được người bản xứ hỏi họ là người ở
đâu, thì họ thường nhận ngay là "Người Hà Nội". Nhiều người coi Hà
Nội là niềm tự hào, bởi phong thái của người Hà Nội thường có khác biệt hơn,
lịch lãm và đáng yêu hơn, cho nên cái việc nhận là người Hà Nội cũng đồng nghĩa
là đã nhận một nét văn hóa đẹp mà ai cũng mong muốn và lấy đó làm chuẩn mực cho
mình.
Nhưng bây giờ, với làn sóng nhập cư, người Hà Nội đã trở nên tạp nham,
hổ lốn và làm hỏng đi hình ảnh của chính mình. Những người Hà Nội cũ bây giờ
gặp lại nhau hàn huyên hay nói chuyện về những cái ngày xưa của Hà Nội, nhưng
đặc biệt, họ đều không thích nói đến chuyện người Hà Nội bây giờ, hay có thể
nói, người ta đang bắt đầu cảm thấy ngượng nếu tự nhận mình là người Hà Nội như
ngày hôm nay.
Không chỉ không muốn nhận là người Hà Nội, nhiều người còn lên án cái Hà
Nội đó, cái nơi mà họ đã sinh ra từ bao đời nay và luôn gìn giữ, tự hào về nó.
Họ luôn ám ảnh và khó chịu từ phong cách sống, từ lời nói, việc làm đến nhân
cách của những con người đang sống trên cái mảnh đất Hà Nội hôm nay.
Ngày trước, khi Hà Nội chưa đông dân, chưa có nhiều phương tiện giao
thông, chưa có các tiện nghi hiện đại và chưa có cuộc cách mạng về di cư như
bây giờ, thì "Người Hà Nội" ngày đó, với một nhịp sống chậm chạp, và
con người ta còn có thể tự ngắm nhìn lại mình để biết mình có còn hào hoa,
thanh nhã, lịch lãm và tự trọng nữa hay không.
Bây giờ thì khác, Hà Nội ngày nay đã khác xa ngày xưa. Chính điều đó đã
làm cho cái cổ kính của Hà Nội nó biến thái đi, và có thể nói, Hà Nội bây giờ
là một cái gì đó nó không giống bất cứ một nơi nào trên thế giới.
Nói chung là loạn, nếu không muốn nói là hổ lốn và "lộn tùng
phèo" như một cái nồi lẩu thập cẩm trên bàn nhậu.
Đó chính là cái Hà Nội hiện nay mà chúng ta đang sinh sống với những khu
trung tâm quá nhiều nhà cửa, biệt thự và chung cư - cái đẹp đẽ khang trang lịch
sự liền ngay bên cạnh là cái bẩn thỉu nhếch nhác và rác rưởi.
Đường phố đó đây chỗ nào và lúc nào cũng nham nhở như một bãi rác và
công trường. Tiếng ồn của máy xây dựng, dây điện nhằng nhịt giăng trên cột điện
nhấp nhô với những chiếc loa truyền thanh công cộng đinh tai nhức óc.
Đó là một thành phố với hàng chục triệu cái xe máy các kiểu và các loại
ô tô với một giao thông bát nháo không có nguyên tắc, luật lệ với một lượng
khói xe và khí thải ô nhiễm đứng vào hàng đầu thế giới, còn hơn cả thủ đô Bắc
Kinh - Trung Quốc.
Cứ thử xem Hà Nội có lúc nào là đường không tắc?
Có lẽ là chỉ vào ban đêm. Cả ngày, từ sáng đến đêm lúc nào cũng chật
cứng và đông nghịt. Mỗi buổi sáng đi làm hay buổi chiều về bị tắc đường, con
người sẽ khổ cực như thế nào? Trong lúc tắc đường, ở những ngã tư ngã năm phải
hít bụi và khói ô tô xe máy, xin lỗi nếu không bệnh tật thì cũng ung thư phổi
mà chết.
Hơn nữa, ở Hà Nội bây giờ, tầng lớp giàu nghèo phân hóa rõ rệt, người
nghèo cứ ngày một nghèo xuống mãi, người giàu cứ ngày một giàu lên mãi. Họ giàu
có không hẳn vì thông minh hơn, giỏi giang hơn…
Đó là một thành phố với các loại cửa hàng, từ thời trang đến tiệm bán đồ
ăn, quán xá nhậu nhẹt và cầm đồ, gây ra một không khí hỗn loạn, nếu không muốn
nói là khủng khiếp. Mở mắt ra là thấy lừa lọc, rượu chè nhậu nhẹt, hơn thế nữa
là gái điếm, lô đề và cờ bạc...
Có thể nói bây giờ, chính những người Hà Nội gốc sinh sống ở nơi khác,
khi được hỏi về Hà Nội, họ nhiều lúc còn không dám nhận mình là người Hà Nội
nữa. Bởi những cảnh tượng khó coi và không thể chấp nhận được khi người ta
thường thấy ở trên đường, thí dụ như những cô gái đẹp ngồi trên xe ôtô sang
trọng mở cửa kính ra vứt rác xuống mặt đường, hay những cô mặc váy ngắn chân
dài môi tô son đỏ chót mà khạc nhổ trên xe khi đang chạy, để nước bọt bay theo
chiều gió tạt vào mặt kẻ đi sau...
Và còn rất nhiều những chuyện buồn cười vô học khác nữa.
Đó là những cái bình thường ở nơi khác không có, mà chỉ có ở Hà Nội, và
những người tự cho mình là người Hà Nội mới làm những chuyện đó. Đó chính là
những con người đang sinh sống ở một nơi có 1.000 năm lịch sử văn hóa, và là bộ
mặt của một đất nước.
Vậy định nghĩa thế nào là Hà Nội, và thế nào là một người Hà Nội?
Cái đó không quan trọng, cái quan trọng là ở dân trí, sự hiểu biết và
văn hoá cốt cách của những người đang sống trên mảnh đất đó.
Tuệ Phong - 2024
Fanpage Hà Nội Tôi Yêu
-
Sdeoontrspa14a78ú 04tugt7hf085mm7g36lau74ph4h096ht9411uachg2
Khi đưa lại bài này tác giả Sơn Hoàng Vũ có thêm một câu bình luận:
Nghe có buồn không!
---
NGUYỄN HUY THIỆP - NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ - MỘT VÀI ĐIỀU BIÊN
(Bài viết đơn
thuần suy nghĩ, không mang tính học thuật, mà chỉ nhằm tưởng niệm 75 năm ngày sinh cố
nhà văn NHT 1950-2025)
-
Đọc Những người muôn năm cũ, ta như bước vào
một miền ký ức hoang vu, nơi những phận người bình dị sống lay lắt bên ngọn núi
Đười Ươi, sống trong bóng tối, tăm tối cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Và hơn cả,
tác phẩm là tiếng thở dài sâu kín của một con người đã đi qua những năm tháng
thanh xuân nơi miền rừng núi khỉ ho cò gáy ấy, trở về đối diện với những tàn
tích của ký ức và bâng khuâng hỏi: “Hồn ở đâu bây giờ...”
Câu thơ của Vũ
Đình Liên đặt đầu truyện, là chìa khóa cho toàn bộ câu chuyện: “Những người
muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ...” - những con người giản dị ấy, những con người
như ông An, bà Hinh, như Doanh, như cậu thanh niên “tôi” những người từng hiện
diện trong ký ức, giờ chỉ còn là những bóng ma, những nấm mồ phủ cỏ, những người
“muôn năm cũ” đúng nghĩa. Nhưng có lẽ cái “hồn” mà Nguyễn Huy Thiệp day dứt đi
tìm không chỉ là hồn của những con người thân quen năm nào mà còn là “hồn người”,
là nhân tính, là giá trị sống giản dị mà chân thật của một thời đã xa, một thời
người ta còn biết yêu thương, biết gắn bó, biết phục vụ người khác bằng một thứ
lương thiện thật thà như bà Hinh, hay biết sống giản dị như ông An - người đi
săn vụng về bắn không trúng con gì.
-
Tác phẩm được
kể qua cái nhìn của nhân vật “tôi” - một thầy giáo trẻ khi ấy 20 tuổi, ngây thơ
và giàu lý tưởng. Nhưng khi trở về sau hơn ba mươi năm, người ấy nhận ra tất cả
đã đổi khác: ông An và bà Hinh đã thành nấm mồ đá trên núi, Doanh hóa thành một
ông già nghiện ngập, tuyệt vọng trong bóng tối, chính mình cũng chỉ là “người sống
sót” quay lại để nhìn ký ức mục nát đi từng phần.
-
Cấu trúc truyện
giống một bài ký sự hơn là một câu chuyện hư cấu. Nguyễn Huy Thiệp không tạo dựng
xung đột kịch tính hay sự kiện lớn lao, mà chậm rãi kể về cuộc sống, như cách
người ta lần giở từng bức ảnh cũ. Cuộc sống trong xóm núi ấy hiện lên thật buồn:
những bữa cơm đạm bạc, những buổi tối bên bếp lửa, những trận cháy rừng như tận
thế, những đêm mùa mưa lạnh buốt, cái nghèo, cái lạc hậu như lớp sương muối
giăng kín quanh đời sống con người.
-
Mỗi nhân vật
là một mảnh số phận nhỏ, nhưng cũng là một ẩn dụ về cuộc đời như ông An - người
lính chuyển ngành, cô độc và thô ráp, sống bằng thói quen săn bắn vụng về, là
hình bóng một thế hệ lính trận cũ không thể hòa nhập mà cũng không thể bỏ đi
(giống như ông Thuấn). Hay như bà Hinh - người đàn bà lam lũ, hiền hậu, bám víu
vào tình mẹ với cô con gái Xuân như thứ ánh sáng cuối cùng của đời mình.
-
Hạnh phúc của
bà giản dị, thậm chí ngây thơ. Cái chết của bà như là sự chấm dứt của một thứ
nhân hậu nguyên sơ. Rồi Doanh - người thầy giáo hoài nghi và tuyệt vọng. Lời
nói của Doanh xuyên suốt truyện như một thứ triết lý đen tối: “Học hành chỉ là ảo
tưởng”, “Học vấn khiến người ta tưởng có thể thay đổi số phận”, nhưng rốt cuộc
con người chỉ chuyển dịch từ “một hoàn cảnh thối tha này sang một hoàn cảnh thối
tha khác”. Con người ấy từng khinh miệt tất cả - nhưng rồi chính hắn cũng tàn lụi
trong nghiện ngập. Đó là một hình tượng triết lý cay nghiệt của Nguyễn Huy Thiệp
về thân phận trí thức trong một xã hội hỗn loạn, vô minh.
-
Cuối cùng là
“tôi” - nhân vật kể chuyện - chính là người duy nhất mang trong mình niềm khát
vọng thoát khỏi xó núi, người đã bước đi khỏi vùng đất tối ấy, nhưng rồi khi
quay về, lại day dứt tự hỏi: liệu có thực mình đã thoát ra chưa? Hay cũng chỉ
là một Doanh khác, nhưng biết che giấu hơn?
Dưới bàn tay
Nguyễn Huy Thiệp thì cảnh vật, con người đều nhuốm màu triết lý. Con đười ươi
trên đỉnh núi như kẻ quan sát câm lặng, kẻ chửi bới ngạo nghễ nền giáo dục bằng
những cử chỉ tục tĩu chính là một biểu tượng thâm sâu mà Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm.
Nó chính là phần hoang dã, phần “bản năng gốc” trong mỗi con người, thứ mà mọi
lớp vỏ học vấn, đạo đức và tri thức đều không thể che lấp. Khi con người ngồi
trên bục giảng, nói về ánh sáng tri thức, thì con đười ươi như một chiếc gương
đen phản chiếu sự hoang tàn ẩn giấu trong sâu thẳm họ. Phải chăng, con đười ươi
ấy là bản thể thật sự của nhân vật Doanh, của cả ông An, của chính “tôi”, và của
chúng ta? Ngọn núi Đười Ươi nơi an nghỉ của ông An, bà Hinh cũng là nơi kết
thúc câu chuyện. Đó là đỉnh cao của cái chết. Một cái chết yên bình, đơn giản
nhưng đầy u uẩn. Người kể chuyện trở về, thắp một nén nhang, đứng giữa mùi cúc
dại ngai ngái, ngơ ngác không biết mình đang tưởng niệm người khác hay chính cuộc
đời mình.
Đọc xong truyện,
cảm giác đọng lại không phải là bi thương hay phẫn nộ, mà là sự mệt mỏi và nỗi
buồn âm thầm như sương muối trên ngọn cỏ. Cuộc đời ấy, con người ấy, những năm
tháng ấy tất cả đều đã qua, hóa thành tro bụi, chỉ còn lại chút “hồn” lảng vảng
trong câu hỏi vô vọng: “Hồn ở đâu bây giờ…” Cũng giống như ánh sao cuối chân trời
ngày xưa, người kể chuyện đã đi về phía nó nhưng ngôi sao ấy vốn dĩ đã tắt từ
lâu, chỉ còn ánh sáng tàn vọng lại.
Phải chăng, điều
khiến con người bước tiếp, rời bỏ, hay quay về, đều là ánh sáng của những vì
sao đã chết?
Hà
Nội
2024
Sửa
lại 2025/7/19 tại Hà Nội