Mục lục:
1/ Ths. Bùi Thị Kim Phượng: Sự đổi mới quan niệm về con người trong “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp
2/ Nguyễn Mạnh Hà: Sự thức nhận về vai trò, vị trí của nhà văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
3/ Vương Trí Nhàn: May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp
4/ Nguyễn Quang Thiều: Nguyễn Huy
Thiệp và sự thức tỉnh
5/ Nhà văn Hàn Quốc Bae Yang Soo: Nguyễn Huy Thiệp và tiếng vang sâu lắng tại Hàn Quốc.
***
Ths. Bùi Thị Kim Phượng
SỰ ĐỔI MỚI QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI
TRONG “TƯỚNG VỀ HƯU” CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Đọc “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp thấy một giọng văn gai góc khi miêu tả thế giới người ấy không khác gì thế giới vật là mấy. Vì đó là những con người: Những con người cô đơn: Người ta gọi thời hiện đại là thế kỷ cô đơn, bi kịch của nỗi cô đơn ngập tràn. Con người mang mặc cảm cô đơn như một bản án ngay từ khi sinh ra. Các nhân vật trong chuyện gắn kết với nhau bằng quan hệ gia đình, xã hội tưởng như sâu sắc và bền chặt nhưng thực ra lại vô cùng lỏng lẻo và dễ đứt.
Tướng Thuấn từ một địa vị cao trở về với cuộc sống đời thường như cá tách khỏi nước, không thể hòa nhập được với cuộc sống mới, nếp cảm nếp nghĩ mới. Ông vẫn giữ nguyên cốt cách người lính. Gánh nặng của truyền thống, lịch sử vẫn đè nặng lên đôi vai của người anh hùng chiến trận. Gánh nặng truyền thống ấy không dễ gì rủ bỏ, tướng Thuấn khi về hưu thì vẫn là “hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng”. Đó là tâm lý chung của một dân tộc yêu quá khứ, yêu những chiến công, không dám đi xa hơn ảnh hưởng của quá khứ, tâm lý không dám vượt ngưỡng. Vì thế tướng Thuẫn cô đơn, câu nói “sao tôi cứ lạc loài” như chứng minh điều đó. Một thế giới ngổn ngang sự vật, đang phân rã, tồn tại lơ lửng bên nhau. Tướng Thuấn chết mà vẫn lạc loài, lạc loài cả khi đã quay về quá khứ vàng son của mình.
Hiện tại không đủ sức làm con người bớt cô đơn, con người không có hoài bão, xã hội không có tương lai, không xin được vào tương lai mà trở về quá khứ cũng không còn chỗ bám trụ. Con người ta biết đi về đâu? Tướng Thuấn cô đơn. Đó là sự cô đơn của ý thức thế hệ. Con người thế hệ, không bi kịch, không cô đơn, là thế hệ yên tâm vào trong lai biết trước, ẩn minh trong cộng đồng. Họ thuộc về một cộng đồng, một cơ chế nhưng đã bắt đầu thấy được chỗ bất ổn của cơ chế và mối liên hệ với cộng đồng trở nên phức tạp hơn nên mới thấy cô đơn. Không thể hòa nhập thực tại bởi thực tại không còn nguyên những giá trị đạo đức truyền thống hoặc là những giá trị hoàn toàn mới mà đấy chỉ là sự lai ghép thảm hại, đánh mất thuần chủng, tinh khiết trong đời sống tình cảm, vật chất của con người. Vấn đề ở đây có phải là bản lĩnh sống?
Các nhân vật trong truyện cùng đều cô đơn, lạc loài với xã hội và với chính mình. Cảm xúc dường như vắt kiệt qua những đoạn đối thoại rời rạc. Đối thoại để hiểu nhau, là nhịp cầu nối giữa người với người nhưng ở đây chỉ còn là những chuỗi âm thanh phát ra loạn xạ. Mỗi người phát ra chuỗi âm thanh của minh theo ý nghĩ vụt đến, lộn xộn, không ăn nhập, không chờ mong sự đáp trả, không ai hiểu ai...Đối thoại mà không khác gì độc thoại, đối thoại cảm. Ví dụ nhu: đoạn đối thoại sau:
Ông nói “Bà ấy cứ xoay ngang dọc trên giường thể này là gay go đấy”. Lại hỏi: “Chị nhận ra em không?”.Mẹ tôi bảo:” Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?”. Mẹ tôi bảo:”Là người”. Ông Bổng bỗng khóc òa lên: “Thế là thương em nhất. Cả làng họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”.
“Ông thợ mộc quát: Sự chúng ông ăn cắp gỗ à?”. Ông Bổng hỏi: “ Ván máy phân?”. Tôi bảo: “ Bốn phân”.Ông Bổng bảo: “Mắt mẹ bộ xa - lông. Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dồi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”
Nhân vật cũng được đơn giản hóa như những kí hiệu, như một bản kê khai lý lịch, không hơn:
“ Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn (...) Tôi ba mươi bảy tuổi, là kĩ sư, làm việc ở viện vật lý. Thuỷ, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ”.
Con người giữa ranh giới cần cái thiện và cái ác: các nhân vật chính không bị lí tưởng hoá, họ cũng có sai lầm cũng phải chiến đấu với phần bóng tối trong mình. Con người như một tiểu vũ trụ đầy bí mật và không thể biết trước, không thể biết hết, những đột biến tâm lí, tính cách, những hành động bất ngờ không thể đoán trước. Tướng Thuẫn là anh hùng trận mạc nhưng không vì thế mà được lí tưởng hoá. Bên cạnh cái cao cả vẫn có những cái tầm thường ở con người được coi nhu chuẩn mực của đạo đức xã hội ấy. Ông cũng bất lực, chỉ biết dở cười dở khóc trước thực tại đời sống hỗn loạn, xô bồ, thô thiển, ô trọc. Cái đạo mạo, trang trọng được đặt bên cạnh lại trở nên mục cười, thảm hại. Nó là chất nghịch dị. Đoạn đám cưới con ông Bỗng là một ví dụ. “Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ". Họ luôn phải cưỡng lại một cái gì đó ở bên trong bản thân, thiện và ác, lí trí và dục vọng, cái riêng và cái chung bên trong con người. Người ta vẫn tốt nhưng cái tốt dường như ít đi xa hơn, luôn phải giữ mình để khỏi làm điều ác. Có nhà văn đã cho rằng. Cái thiện hơn cái ác có nửa vòng bánh xe thôi. Con người có tự do hay không là nhờ nửa vòng bánh xe ấy.
Nhưng nhà văn không phán xét đâu là cái thiện, đâu là cái ác trong con người, không phán xét và không thể phân định một cách rạch ròi được. Bản chất thế giới là vô minh, con người cũng là vô minh. Nguyễn Huy Thiệp còn kêu gọi con người phải biết ghê tởm điều thiện như chính điều ác vậy. Tin tưởng tuyệt đối vào cái thiện như một châu là lại đã đang đặt một chân sang bên kia của cái ác vì “chân lý của cuộc sống là sự hỗn độn, cả phương Đông hỗn độn, cả thể giới hỗn độn. Trong cái hỗn độn đó, chúng ta tìm cách xây dựng những trật tự nhỏ (như gia đình, anh em, bạn bè,...). Còn trẻ, ai cũng tôn trọng trật tự, càng già đi người ta càng có xu hướng chấp nhận sự hỗn độn cao hơn. Vì thực ra. mọi giá trị cũng luôn biến đổi, nên cái hay của ngày hôm nay chưa chắc đã sống đến ngày mai, còn cái dở có cái lúc lại lên ngôi và được ca tụng. Chính vì thế lầm lạc, ngu dốt là chuyện thường tình”. Ông Bổng, Thủy là tốt hay xấu, là thiện hay ác? Bên cạnh cái lạnh lùng, bạc bẽo, man dại vẫn ánh lên tính người, tình người, đôi khi còn khiến người đọc cảm động. Mỗi người mang trong minh mầm mống của mọi tính chất con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản thân minh tuy vẫn cứ là chính mình. Con người với tư cách cá nhân như một “nhân vị” độc lập, phải xem xét con người từ nhiều phía, nhiều “tọa độ”, con người “không trùng khít với chính minh”, con người không đơn giản mà phức tạp, nhiều chiều. Ít nhân vật đẹp đẽ, hoàn hảo. Mọi sự lý tưởng hóa sẽ làm cho nó trở nên giả dối, không thật.
Con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân: Con người hay xã hội loài người tự đặt cho mình các luật lệ và đau khổ khi vi phạm những luật lệ ấy. Tưởng Thuẫn được cả xã hội ngưỡng vọng. Xã hội tung hô thậm chí sùng bái cá nhân. Cá nhân được tung hô sống dựa vào hào quang ấy. Cái tâm lý cộng đồng ấy cứ phảng phất trong tác phẩm, đôi khi đặc quánh. Không phân biệt đâu là nạn nhân đâu là thủ phạm, ranh giới thật mong manh.
Nạn nhân là nạn nhân bởi tự mặc định cho mình thân phận nạn nhân nên đã gián tiếp trao quyền cho thủ phạm. Thủ phạm tham gia trò chơi ấy cũng đồng thời biến thành nạn nhân. Tưởng Thuấn cũng là nạn nhân của xã hội yêu quá khứ, thần tượng con người, thần tượng những chiến công. Đó là kiểu tư duy chiến tranh tồn tại ngay trong thời bình Người lính coi chiến đấu là lẽ sống Tưởng Thuẫn chấp nhận và những người trong gia đình ông cũng chấp nhận điều này. Họ là nạn nhân. Và khi không thoát ra khỏi vàng hào quang để trở về với cuộc sống, với những gì là đời thường nhất, con người cảm thấy "lạc loài". Xã hội đưa tướng Thuẫn lần đỉnh cao của danh vọng nhưng trên đỉnh cao ấy cũng là sự cô đơn tuyệt cùng. Vinh quang tột cùng, tột cùng cay đắng là như vậy.
Con người như một thực thể đang sinh thành: Cuộc đời là nghiêm túc nhưng cũng là một trò chơi, cuộc thí nghiệm của những cái tôi nhỏ bé. Tham gia trò chơi vừa phải tuân thủ luật chơi nhưng đồng thời bất cứ trò chơi nào cùng chứa đựng những cái bất ngờ, ngẫu nhiên ngoài mọi dự đoán và tính toán của con người. Trò chơi vẫn tiếp tục ngay cả khi nhân vật chết đi. “Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu". Dòng chảy cuộc sống vẫn tiếp tục, những bi hài nhân sinh vẫn tiếp tục, nhưng khả năng mới lại được mở ra, không có chân lý cuối cùng. Con người không bao giờ là hoàn tất và trùng khít với chính bản thân nó, nó luôn trong trạng thái sinh thành, luôn là một ẩn số. Tác phẩm luôn mời gọi sự đối thoại và nuôi dưỡng khả năng ngạc nhiên của con người!
Kết luận
Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra là người rất thành công trong việc xây dựng con người. Ông len lỏi vào những nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ. Tướng Thuẫn lạc lõng trong chính gia đình của mình giữa độ chênh của 2 thế hệ với 2 thời kỳ khác nhau.
Nguyễn Huy Thiệp hay sử dụng cách nói cực đoan, nhưng những suy nghĩ của ông về vai trò, sứ mệnh của nhà văn, của văn học nghệ thuật là điều đáng để cho chúng ta trăn trở, day đi dứt lại, dù tác giả tự nhận văn chương của mình chỉ như những ngọn gió. Sự thay đổi quan niệm về nhà văn, về vai trò văn học nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã có tác dụng tích cực trong phát huy cá tính sáng tạo của nhà văn, trả văn học về lại với quy luật phát triển và những đặc trưng đích thực của nó. Nguyễn Huy Thiệp dũng cảm nhìn vào sự thật để trình bày hiện thực đúng theo những gì mình thấy, những gì mình nghĩ. Tác phẩm của ông đã dạy chúng ta rằng “Cuộc sống như một dòng sông, có cả sự trong veo tinh khiết đến ngỡ ngàng của nước, có cả rác rưởi đang trôi”.
---
Nguyễn Mạnh Hà:
SỰ THỨC NHẬN VỀ VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NHÀ VĂN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
Nhà văn - có người nói - là một nhà tư tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc nhà văn lúc nào cũng phải đối diện với chính mình, luôn luôn đặt những câu hỏi cho mình, về mình. Chế Lan Viên, nhà thơ lớn của dân tộc, với ý thức phản tỉnh cao độ, lúc nào cũng day dứt khôn nguôi về sự tồn tại của bản thân. Chính bởi vậy, thơ Chế Lan Viên đã hình thành nên cảm hứng sám hối . Ông từng đặt cho mình hai câu hỏi (Ta là ai? Ta vì ai?). Có khi ông ví mình như “Tháp Bayon, bốn mặt dấu đi ba”. Nhà văn bất cứ lúc nào cũng là “người đi tìm mặt” (thơ Hoàng Hưng). Họ không thôi đặt ra những câu hỏi trong tư tưởng và phơi bày chúng, giải quyết chúng (tất nhiên phải thông qua thế giới hình tượng nghệ thuật). Khi giải quyết những vấn đề tư tưởng ấy, thực ra nhà văn đã xác định chỗ đứng của mình. Từ đâu, từ địa vị nào mà anh nhìn thấy con người, xã hội như anh mô tả. Nguyễn Huy Thiệp lặng lẽ đưa vào tác phẩm những nhân vật là nhà văn, nhà thơ - giống như một sự hoá thân của thân xác nhà văn ngoài cuộc đời, những lời bình luận của các nhân vật khác. Bằng cách làm ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự “gây hấn” với nghệ sĩ cả truyền thống và hiện đại, thực sự tạo nên những pha gây “sốc” cho người đọc, bởi cái mà Nguyễn Huy Thiệp đưa đến cho người đọc qua hai cách làm là tạo dựng địa vị của nhà văn (cái nhìn của chính người trong cuộc, cái nhìn của kẻ bên ngoài).
Các nhà văn trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp luôn đặt trong mối quan hệ với xung quanh, điều tất nhiên, nhưng họ không phải là người vượt lên trên tất cả. Họ ngụp lặn trong cuộc sống bùng nhùng và cũng phồn tạp như cuộc sống. Dù rằng, lúc nào họ cũng ý thức về bản thân. Tân Dân, một nhà văn có uy tín trong làng văn, làng báo, đã phát ngôn hùng hồn: “Văn chương bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên,thoát thành bướm và hoa đấy là chí thánh” (Giọt máu)(1). ở đây phần nào ta bắt gặp tư tưởng của Nam Cao về người nghệ sĩ: phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời. Nhưng nếu người nghệ sĩ trong tác phẩm Nam Cao là người thánh thiện, biết vượt lên trên những tầm thường xung quanh, không bao giờ hoà lẫn với xung quanh (trong ý thức nhà văn không bao giờ tha hoá dù đến tận đáy bần cùng), thì người nghệ sĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp lại trộn lẫn với xung quanh, thậm chí nhiều lúc còn nhếch nhác, vô tích sự, vi phạm chính lý tưởng mình rêu rao một cách có ý thức (chính ý thức tha hoá). Thi sĩ trong Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt: “đội chiếc mũ...ngã màu cháo lòng”, trong Đưa sáo sang sông như “người từ thượng cổ bước ra: thô nhám, đơn sơ, rất cồng kềnh”. Tân Dân dù đã phát ngôn về phương châm, quan điểm về văn chương nhưng trong cuộc sống ông là người tham lam, là kẻ học lừa “làm báo nhưng thực chất chỉ buôn giấy”, lại còn buôn thuốc phiện lậu. Nhà nghiên cứu X. là bậc đàn anh trong giới văn sĩ, luôn nêu cao “tính người”, “chữ tâm” nhưng chính y đã vi phạm lí tưởng một cách khốn nạn khi đi làm cái việc ngược đời (chống lại tạo hoá) – chọn cho mình người bố xứng đáng với địa vị (Cún).
Hơn tất cả mọi đối tượng xã hội, nhà văn là người có trọng trách lớn lao trước cuộc đời. Văn chương có nhiệm vụ nhận thức xã hội - hễ là nhà văn ai cũng biết rõ điều ấy. Nhưng, nhận thức xã hội như thế nào? Phải chăng tất cả những nhận thức ấy đều được phản ánh trong tác phẩm theo nguyên lý “văn chương phản ánh hiện thực” và theo tuyên ngôn “nhà văn – người thư ký trung thành của thời đại”(H. Balzac)? Chắc hẳn Nguyễn Huy Thiệp nghi ngờ về điều ấy. Sự thực mà văn chương phản ánh nhiều lúc vụn vặt, ấm ớ, vô nghĩa, có khi chỉ là chuyện tình cờ hai người trú dưới hiên nhà trong một trận mưa về sau thành vợ, thành chồng. Nguyễn Huy Thiệp, dường như vô tình, đã mỉa mai: “chuyện này đã có người viết (thế mới biết nhà văn ở ta xông xáo)” (Không có vua). Văn chương thậm chí còn có kiểu ngớ ngẩn và điên rồ: thơ về nhổ lông chân của gã thi sĩ được nhắc đến trong Mưa.
Những ví dụ trên phần nhiều mang dấu ấn chủ quan bởi nó thông qua ngôn ngữ của người trần thuật - kẻ trung thành với nhà văn chuyển điều muốn nói tới người tiếp nhận. Bên cạnh đó nhà văn còn dùng hình thức khách quan hoá: để các nhân vật trong tác phẩm nhận xét về văn chương, tức hướng tới đối tượng giao tiếp trong tác phẩm. Chẳng hạn thi sĩ trong Mưa nói với người tình “Thơ là thứ tài năng tầm thường nhất”. Chú Hoạt trong Chú Hoạt tôi bị xỉ mắng, giễu cợt và bị đuổi đi khỏi nhà cũng chỉ vì chú làm thơ: “Bố tôi (người kể chuyện - NMH) tím mặt lại (…) ông văng tục: “A, hóa ra mày làm thơ, viết văn! Giời ạ! Thật là đồ chó (…) Hoá ra nhà tôi lại có một nghệ sĩ nữa kia! Rõ phúc nhà tôi to quá …”.
Về điều này, cũng xin nói, dường như Nguyễn Huy Thiệp có sự mâu thuẫn. Ông nghi ngờ về sự phản ánh của văn chương nhưng chính tác phẩm văn chương của ông lại minh chứng cho khả năng phản ánh hiện thực của nó.
Văn chương có nhiều thứ - chính Nguyễn Huy Thiệp đã viết - “Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn” (Giọt máu). Cũng như thế, nghệ sĩ có nhiều kiểu. Nguyễn Huy Thiệp đã đi sâu vào khám phá thế giới bí ẩn của nhà văn và ông không ngần ngại trình bày lên trang viết. Nhà văn có khi là người có “tri giác thấu thị” (Sang sông), “trực giác tuyệt vời” (Vàng lửa), có khi cảm hoá được người điên (Đưa sáo sang sông). Nhưng chính nhà văn lại tự ý thức về bản thân mình - bản thân anh ta là một sự bất lực lớn. Sự bất lực trước cuộc sống mênh mông mà mình không phải là người chỉ đường, mình chỉ trình bày một trạng thái nhân sinh, cũng có thể là chỉ tại cái đa cảm của mình. Bất lực trong cái vốn ít ỏi của tri thức học vấn. Có thi sĩ cả một đời long đong trên sáu dưới tám với cái vốn“ngót nghét 500 từ”. Chính vì sự bất lực ấy mà nhà văn tự coi là “thiếu lương thiện”. Theo cách nói của Nam Cao là “đê tiện”.
Nhà văn cũng như trăm triệu con người khác bị lún sâu trong cái xã hội như món nộm. Họ có trăn trở bao nhiêu, có kiếm tìm bao nhiêu rốt cục cũng chẳng tác động ăn thua gì tới hiện thực. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Thiệp đặt các nhà văn bên cạnh các nhà chính trị. Nguyễn Du bé nhỏ bên cạnh Gia Long tàn ác nhưng “có sức đẩy … với cộng đồng” (Vàng lửa). Đồ Ngạn tự nhận xét mình là đê tiện khi đứng bên cạnh mình một tầm vóc cao lớn - Hoàng Hoa Thám (Mưa Nhã Nam). Theo chúng tôi điều này có liên quan mật thiết với quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp: quan niệm về kiểu con người thực tế gắn với hành động. Làm chính trị là hành động. Một tên cướp bất nhân, một đôi tình nhân trơ trẽn nhưng họ cao cả hơn nhà thơ bởi họ bằng cách này hay cách khác tìm cách cứu đứa bé. Ngược lại, nhà thơ bông đùa tàn nhẫn, tán thưởng và bình luận một cách vô tình: “Có thế chứ!”, “tình yêu làm con người cao thượng” (Sang sông). Bọn văn chương - từ được nhiều người dùng - quả thực nhiều khi vô tích sự. Tuyên ngôn thì nhiều nhưng tính thiết thực thì ít. Đứng trước thử thách đòi hỏi phải hành động thì lại tỏ ra nhút nhát, nhút nhát một cách cao thượng (Sang sông), nhiều khi vô tâm (chẳng hạn việc làm thơ của nhà thơ Anh Ngọc trước cái chết của cái Minh, cái Mị khiến nhân vật “tôi” băn khoăn: “không hiểu sao anh làm thơ được trong hoàn cảnh nhẫn tâm như thế” (Thương nhớ đồng quê), chẳng bao giờ: “biến được ngọn bút thành ngọn giáo hay cái câu liêm” (Mưa Nhã Nam). Cái bản chất của con người nghệ sĩ này cũng đã được Hoà Vang đề cập trong Tâm hồn chó. Dường như là một dụng ý khi Nguyễn Huy Thiệp đã hơn một lần đem nhà văn đặt vào các sự biến lịch sử và ông để các nhân vật khác có chung một phán quyết. Tri huyện Thặng cảnh báo: “Không hách thì để cho bọn văn chương các chú làm loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch” (Chút thoáng Xuân Hương). Nguyễn Ánh bảo với Đặng Phú Lân: “ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi. Chữ nghĩa nó thối lắm, nguỵ biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dồi chó, hèn mọn cả” (Kiếm sắc). Cuộc sống theo Nguyễn Huy Thiệp dù muốn dù không cũng phải gắn với thực tế, phần thực dụng. Nguyễn Du “không đứng cao hơn quần chúng”, không biết làm chính trị dù ông yêu thương con người, ngược lại Gia Long “chỉ chịu trách nhiệm với bản thân” lại cao hơn tất cả. Các nhân vật là thi sĩ trong Mưa, Đưa sáo sang sông, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, thậm chí cả nhà thơ Anh Ngọc đã nêu, phải chăng là minh chứng cho câu hỏi của ông: đâu là tính thực tế của văn chương?
Xét về phương diện này, Nguyễn Huy Thiệp đã ít nhiều đề cập đến mối quan hệ thiện, ác. Chữ nghĩa luôn gắn với chữ tâm, mà đã tâm (trạng thái tĩnh) ít được việc. Để thành công nhiều lúc phải tàn nhẫn, phải ác. Cái ác gắn liền với sự phát triển. Nhiều lúc nó làm ta ngạc nhiên, nhưng ngạc nhiên để thừa nhận nó “đúng một cách khốn kiếp”.
Theo chúng tôi, văn chương trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp là một thứ nghề, dù đó là thứ nghề đặc biệt “nghề nguy hiểm”. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi thấy xuất hiện bốn lần từ “nghề” ông dùng cho văn chương: “văn chương hành nghề” (Giọt máu), “nghề nguy hiểm” (Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt), “nghề đê tiện” (Đưa sáo sang sông), “nghề văn” (Những người muôn năm cũ). Khi trả lời phóng vấn trên FRI, Nguyễn Huy Thiệp cũng trả bày tỏ quan điểm: “theo tôi nghề văn cũng như mọi nghề khác. Đừng quá hi vọng vào nó” (2). Có lẽ bởi quan niệm này mà Tú Xương vẫn cợt nhão với đời, ông chối bỏ việc theo tiếng gọi Đông Du để vừa “thẳng tay vào chợ” vừa “Ca di cà kật”. Người làm nghề văn phải lục tung bùn đất, phải sống với nó nhưng không được ngập trong nó, bao giờ cũng phải tìm đến giá trị chân chính đặc thù, dù nhiều khi cũng phải buồn cười mà cay đắng: “Tư tưởng nhân đạo, tình cảm nhân đạo sẽ chẳng được ai đoái hoài nếu không có những nhà văn” (Nguyễn Huy Thiệp)(3).
Nói đến nhà văn bao giờ cũng nói đến nỗi buồn lớn, niềm cô đơn lớn. Thi sĩ càng vĩ đại nỗi cô đơn càng chất chứa. Thi sĩ là người chạy đua theo lí tưởng, kiếm tìm lí tưởng. Để có được con đẻ tinh thần, nhà văn phải trải nghiệm, phải suy ngẫm, phải “nhào nặn thực tế”. Kết quả của những trải nghiệm ấy “đem lại cảm giác bất an trước thực tại bằng cách đặt ra vô số những câu hỏi về tồn tại” (4). Vì thế có người cho rằng đời thi sĩ là “khổ đau, lận đận” (Lecmontov). Nguyễn Huy Thiệp ý thức rõ điều này. Ông nhận ra giá trị của văn chương là “lưu giữ nhân tính”(Kant), nhưng ông cũng bất lực trước thực tại cuộc sống phũ phàng. Các nhà văn trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường là “những người phải sống bên cạnh những con người coi thường giá trị tinh thần, coi trọng giá trị vật chất, ham muốn hưởng thụ, chiếm đoạt” (5). Vì thế họ luôn có cảm giác “sao tôi cứ như lạc loài”. Họ cô độc giữa bầy đàn. Họ lặng lẽ kiếm tìm một lý tưởng có lẽ chỉ giành riêng cho giới họ. Thi sĩ trong Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt dù đã lặng lẽ hoà nhập vào cuộc sống: “không hề ai biết hắn là thi sĩ”, nhưng chính y cô độc một cách đáng thương: “y lẽ loi nghiêng lệch một góc trời”. Hình ảnh người thi sĩ trong đoạn kết thúc tác phẩm gieo vào lòng một nỗi buồn da diết, một tiếng kêu khắc khoải, báo động - tiếng kêu “thảng thốt” của con hạc lẻ đàn. Thi sĩ trong Đưa sáo sang sông dù có dáng dấp phong trần, hành động có vẻ ga lăng trần tục nhưng y thất vọng vì người tình năm xưa không hiểu y “một thi nhân … người thơ”. Cuối cùng y đành bỏ lại chiếc cặp số với đôi quần lót phụ nữ lặng lẽ biến mất giữa xung quanh những ánh mắt hả hê, thích thú.
Bên cạnh những thi sĩ vô danh Nguyễn Huy Thiệp còn tái hiện trong tác phẩm những thi nhân vốn tồn tại ngoài cuộc đời. Hồ Xuân Hương dù chỉ xuất hiện thoáng qua qua con mắt của ấm Huy nhưng cũng điển hình cho “nỗi cô đơn mênh mông của cõi đời” (Chút thoáng Xuân Hương). Nguyễn Trãi suốt một đời theo đuổi lí tưởng, nhưng chính một đời ấy đã biến ông thành “một người cô đơn giữa đời như một hành tinh, một ngọn gió”, “ông lạc loai giữa đám đông”, “ông cô đơn với chính đồng loại”. Chính vì thế mà ông gắn bó với Nguyễn Thị lộ và có chăng chỉ có nàng mới là niềm an ủi hiếm hoi ở đời mà Nguyễn có thể có được (Nguyễn Thị Lộ). Nguyễn Du có “tình” và có “tài” nhưng bé nhỏ trước Gia Long. Tất cả chất chứa bên trong như được biểu hiện ra ngoài qua “khuôn mặt nhàu nát vì đau khổ” (Vàng lửa). Cô đơn là định mệnh của nhà văn, là khởi nguồn cho tài năng và đau khổ. Sứ mệnh của nhà văn là một sứ mệnh vinh quang nhưng cũng bạc bẽo. Làm nghề văn nhiều lúc phải chấp nhận phiêu lưu với cuộc đời. ý thức được điều đó, Nguyễn Huy Thiệp đã xem văn chương là cái nghiệp “theo nghiệp văn chương là một kiểu tu hành” (Chú Hoạt tôi).
Ý thức phản tỉnh của Nguyễn Huy Thiệp qua truyện ngắn của ông nhiều lúc ráo hoảnh, lạnh lùng. Nhưng đó là chân lí. Cách lí giải về người nghệ sĩ của ông thực sự đã làm cuộc “giải thiêng” cho những ngộ nhận về văn chương và nhà văn. Ông âm thầm lặng lẽ đối thoại với cuộc đời từ nhiều phía. Có lẽ vì thế mà đọc những trang văn của ông bao giờ cũng gây những ám ảnh khôn nguôi. Chính ông đã táo bạo chọn cho mình một con đường đi riêng, đó là con đường văn học không ru ngủ con người, không hát ca ca ngợi con người.
1. Nguyễn Huy Thiệp, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hoá- thông tin, Hà Nội. 2002.
2. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Tình hình văn học - Nguyễn Huy Thiệp trả lời phỏng vấn trên RFI ngày 01 – 10, http://thuykhue.free.fr. 3. Trần Văn Toàn, Nhà văn hiện đại Việt Nam - những giới hạn và sứ mệnh (Suy nghĩ từ những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp), ĐH Sư phạm Hà Nội, Ngữ văn học, số1.2006, tr.30.
4. Trần Văn Toàn, tlđd, tr.31.
5. Trần Đình Sử (c/b), Tự sự học, Nxb đại học Sư phạm, Hà Nội.2004, tr.418.
---
Vương Trí Nhàn
MAY MẮN CHÚNG TA CÒN CÓ NGUYỄN HUY THIỆP
===
Trong văn học Việt Nam đương thời, Nguyễn Huy Thiệp đứng một mình, đứng riêng một chỗ. Nguyễn Huy Thiệp viết do ông thấy tự mình phải viết và không viết không được.
Câu trả lời nước đôi
hay là một cách nghĩ hiện đại
Người ta sớm thấy toát ra trong các truyện ngắn của ông những ý tưởng đại loại như “cuộc đời thật là dị hợm kỳ cục, con người không đáng tin, nhưng không tin thì làm sao mà sống nổi”, “cuộc đời rất buồn nhưng cuộc đời vẫn rất đẹp.”
Đọc Tướng về hưu, Không có vua... thấy Nguyễn Huy Thiệp đã rất lõi đời, nhìn đời thấy không có gì đáng sống, nhưng người ta vẫn phải sống với nó. Về sau đọc loại như Nguyễn Thị Lộ hay Sang sông thì lại thấy Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn có cái bình thản tin đời, tin cả cái hào sảng trong sáng của đời.
Ông hồn nhiên suy nghĩ chứ không cố tỏ ra triết lý, tỏ ra sâu sắc. Cũng tức không cố tỏ ra hiểu đời mà thật đã rất hiểu đời.
Ông sống với tư tưởng của muôn đời khi đề cập đủ chuyện nào vấn đề thiện và ác, làm người thế nào, nào câu hỏi cuộc sống là tốt đẹp hay đáng phỉ nhổ...
Bao giờ câu trả lời của Nguyễn Huy Thiệp cũng song trùng, vừa thế này vừa thế kia (như trong vật lý lượng tử người ta bảo bản chất của vật chất vừa là sóng vừa là hạt), cuộc đời vừa đáng yêu vừa đáng ghét, vừa đáng phỉ nhổ vừa đáng trân trọng.
Ngay trong một truyện ngắn con người hiện ra "nhếch nhác toàn tập" như Không có vua thì câu người ta nhớ nhất là câu "Thương lắm" của cô Sinh, ở cuối truyện.
Một mình một cõi
Trước Nguyễn Huy Thiệp, người viết văn viết báo ở ta luôn luôn bị môi trường hoạt động của mình chi phối, người nọ nhìn người kia mà sống và làm nghề.
Chúng tôi thường trông đàn anh của mình viết rồi viết theo, không vượt được hoàn cảnh.
Nguyễn Huy Thiệp chẳng nhìn ai cùng thời, ông sống nhiều hơn với các nhà văn lớp trước từ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương trở đi tới Nam Cao, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Phụng...
Rõ ràng Nguyễn Huy Thiệp đối thoại, trò chuyện với rất nhiều đấng bậc, những người làm vẻ vang cho văn học Việt Nam, những nhà văn thực sự.
Phần lớn nhà văn hiện nay bắt đầu là những chiến sĩ văn nghệ, với vai đó họ là những công chức cần thiết cho xã hội. Về sau một số họ lại thường tuyên bố chỉ sang tác cho vui. Nhưng theo tôi trước sau họ vẫn không phải là "làm" văn học. Hoặc nói chính xác hơn họ không làm thứ văn học có thể tiếp nối được dòng mạch mà những nhà văn lớn của Việt Nam đã tạo ra được trong lịch sử, thứ văn học của muôn đời.
Viết đúng về cái ác
chính là khơi dòng cho sự nhân hậu
Trước khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, văn học thường xa lạ với các vấn đề trừu tượng nhất là các vấn đề nhân bản.
Đến Nguyễn Huy Thiệp, những phạm trù của muôn đời như chuyện thiện và ác trong con người lại là ngón sở trường của ông.
Khi thấy Nguyễn Huy Thiệp viết về cái ác thì người ta kêu ầm lên rằng không nên làm thế, không cần viết về cái ác mà nghệ thuật chỉ viết về cái thiện là đủ thậm chí cho viết về cái ác là tội lỗi.
Nguyễn Huy Thiệp không thể làm khác. Hình như trong thâm tâm ông cảm thấy cần viết về cái ác, phải làm thế mới đẩy lùi nó đi được.
Cái ác trong văn Nguyễn Huy Thiệp dai dẳng, bao trùm. Và viết về cái ác chính là cái nhân hậu của Nguyễn Huy Thiệp, lòng nhân hậu của những nhân vật lớn, cái nhân hậu xa lạ với khuôn mẫu sự nhân hậu đương thời.
Đó là sự nhân hậu lặn sâu bên trong.
Lòng tin của ông vào con người không bao giờ mất. Lồng yêu thương con người của ông bắt đầu bằng sự phê phán, ông miêu tả hết cái nhếch nhác, tầm thường, cái khốn nạn, cái không đáng yêu của cuộc đời, nhưng chính bằng cách đó ông lại làm cho người ta hiểu và yêu đời hơn và có thể làm người tốt hơn.
Một số người hiện nay cũng viết về cái ác nhưng không có cái tâm -- với cả nghĩa lớn là sự hiểu biết về cuộc đời thấu đáo -- của ông nên không thể đạt hiệu quả.
Không gục ngã với nghĩa
không thay đổi theo thời
Nguyễn Huy Thiệp lạ lắm, ông sống hòa hợp với các đồng nghiệp mà hình như vẫn đứng ngoài giới nhà văn đương thời và có lẽ điều đó cắt nghĩa được vì sao Nguyễn Huy Thiệp chịu đựng giỏi được như thế.
Tôi không thấy ai, trong suốt cuộc đời làm nghề có tài chịu đựng - có cái kiên cường dám là mình mà vẫn trụ vững với thời gian - được như Nguyễn Huy Thiệp.
Ông vượt qua được những tàn bạo của đời có lẽ cũng vì ông sớm đạt được cái đạo là biết sự nổi tiếng của mình phải trả giá rất nhiều. Một thứ bản năng thiêng liêng mách bảo ông phải chấp nhận những đau khổ thì mới phải đạo, và Nguyễn Huy Thiệp đã không đầu hàng.
Xã hội hiện nay thù ghét nhiều cá tính sang trọng, tiêu diệt nhiều lối suy nghĩ sáng suốt và chính trực. Con người chen cạnh nhau ràng buộc nhau nhiều quá, dù bề ngoài có vẻ khác nhau thì vẫn giống nhau quá. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp viết không để chen cạnh ai, không viết để lấy giải thưởng. Ông chỉ là ông một cái tôi của từng trải và các loại tri thức học vấn thứ thiệt. Nên nhớ ông từng là giáo viên lịch sử thời môn học này vẫn còn thiêng liêng và nghiêm túc.
Tôi vẫn nghĩ, thật may mắn cho mình được sống cùng thời với Nguyễn Huy Thiệp. May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp.
Thiên Điểu ghi
---
Nguyễn Quang Thiều:
NGUYỄN HUY THIỆP VÀ SỰ THỨC TỈNH
Nguyễn Huy Thiệp đã “đâm một nhát dao” xuyên qua tim người đọc. Nhưng tôi nhìn thấy ông gục ngã đầu tiên.
Tôi đọc được truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp khi đang học ở Cuba. Truyện ngắn Vàng Lửa. Đó là năm 1987. Năm đó tôi 30 tuổi và đã học ở Cuba được ba năm. Hồi đó sinh viên chúng tôi chẳng hề có thông tin gì từ trong nước, ngoài những lá thư của gia đình mà bốn, năm tháng mới nhận được một lần hoặc thi thoảng mò đến sứ quán Việt Nam nghe tin từ trong nước. Chính vì thế mà tôi đã “ăn trộm” được một tờ báo Văn Nghệ ở sứ quán. Trong tờ báo Văn Nghệ ấy có in một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Tôi đã đọc nhiều lần truyện ngắn ấy. Tuy Vàng Lửa chưa phải là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng có một điều gì đó đặc biệt đã thay đổi tôi khi nghĩ về văn xuôi Việt Nam đương đại. Trước đó tôi hầu như chưa biết nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhưng lại biết khá nhiều về văn học Việt Nam hiện đại. Trong khi tôi đang “bình yên” trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam thì Nguyễn Huy Thiệp đã “phá vỡ” sự “bình yên” ấy. Ông làm đảo lộn suy nghĩ của tôi. Văn chương của ông đã cuốn tôi vào thế giới mà ông dựng lên không thể cưỡng lại. Một thế giới không có trong văn xuôi Việt Nam trong vài chục năm cho đến trước khi ông xuất hiện.
Đã có cả hàng vạn trang giấy viết về văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Và chắc chắn rằng, mỗi thế hệ bạn đọc mới, mỗi thế hệ các nhà văn mới, các nhà phê bình mới và các nhà nghiên cứu văn chương mới lại tiếp tục mang đến những cái nhìn mới và đa chiều về văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Và lúc này, tôi muốn nói một chút về văn chương của ông trong cái nhìn hẹp, cái nhìn có một phần đối chiếu với đời sống xã hội Việt Nam. Đã có người tức giận hỏi : “Nếu mang các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp vào trường học thì người ta sẽ dạy cho học sinh điều gì từ những tác phẩm đó?”.
Câu hỏi đó đã xuất phát từ một cái nhìn văn xuôi trước khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện và xuất phát từ một cách nhìn khá đơn điệu và đơn tuyến về hình thức và nội dung các tác phẩm văn xuôi mà chúng ta thường gọi là “có hậu”. Vậy thế nào là văn chương “có hậu?”. Nó không phải là thứ văn chương làm cho chúng ta thỏa mãn, nó không ru ngủ chúng ta và nó không làm chúng ta đợi chờ vào một vận may của số phận. Trong cái nhìn của tôi, văn chương “có hậu” là làm cho người đọc nhận ra sự thật của chính mình cho dù đau đớn và cay đắng đến đâu và phải đối đầu với sự thật ấy. Chỉ có sự thật mới thức tỉnh và mách bảo con người chọn được lối đi của mình.
Văn chương Nguyễn Huy Thiệp lúc nào cũng làm tôi đau đớn và trong đau đớn người ta thường bừng tỉnh. Một đặc điểm vô cùng quan trọng trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp là làm cho người ta bừng tỉnh về một đời sống mà họ đang sống trong đó. Khi những truyện ngắn như Tướng về hưu, Không có vua... xuất hiện, có những người đã gọi ông là kẻ bịa đặt, kẻ bôi đen và kẻ làm đảo lộn những giá trị truyền thống. Hãy đọc một đoạn thoại trong truyện ngắn Không có vua của ông: Đoài bảo: "Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết thì hơn". Tốn khóc hu hu. Cấn hỏi: "Ý chú Khảm thế nào?". Khảm bảo: "Các anh thế nào thì em thế". Khiêm hỏi: "Anh định thế nào?". Cấn bảo: "Tôi đang nghĩ". Đoài bảo: "Mất thì giờ bỏ mẹ, ai đồng ý bố chết giơ tay. Tôi biểu quyết"...
Không ít người choáng váng với những đoạn thoại như thế của nhân vật Nguyễn Huy Thiệp trong nhiều truyện ngắn của ông. Nó đưa người đọc vào một thách thức đôi lúc quá sức chịu đựng thông thường của họ. Cái gì đang xảy ra trong đoạn đối thoại trên? Sự băng hoại đạo đức hay lòng nhân ái? Câu hỏi này không phải bây giờ mới được hỏi. Nó đã được đặt ra từ rất lâu trong đời sống nhân tính trên thế gian này. Sau câu hỏi ấy xuất hiện hai câu hỏi khác.
Câu hỏi thứ nhất: “Sao những đứa con đó lại mất nhân tính như thế khi muốn để bố chết?”. Câu hỏi thứ hai: “Sao những đứa con lại mất nhân tính như thế khi bắt người bố phải sống trong đau đớn và sống một cuộc sống vô nghĩa?”. Lúc này, những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp không nhằm thỏa mãn người đọc như quá nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam trước đó. Nó đẩy bạn đọc vào một cuộc chiến tự vấn mà họ không muốn cũng phải tham dự. Người đọc phải trả lời cho chính họ câu hỏi mà cuộc đời đặt ra.
Nó bắt tất cả người đọc phải lộ diện và không ai được lẩn trốn. Không ai được đứng ngoài cuộc để rao giảng đạo đức cho người khác. Nếu trong đoạn thoại ấy, một đứa con không nói “Ai đồng ý bố chết giơ tay” thì người đọc có thể lướt qua tâm trạng của những đứa con trước một hoàn cảnh khó xử. Nhưng ông đã đẩy tới tận cùng và nó “phá vỡ” người đọc. Cách sử dụng lời thoại như vậy rất đặc trưng của Nguyễn Huy Thiệp. Khi đọc truyện ngắn này cách đây mấy chục năm, không ít người trong chúng ta đã tuyên bố Nguyễn huy Thiệp là một nhà văn “tàn nhẫn”.
Nhưng đến bây giờ, đã nhiều người trong họ bắt đầu nghĩ lại bản chất của lòng nhân ái là gì. Câu hỏi của những đứa con trong đoạn thoại trên bây giờ là câu hỏi của nhiều đứa con trong không ít gia đình chúng ta khi đứng trước hoàn cảnh cha mẹ bị bạo bệnh. Những câu hỏi ấy thực sự làm cho những đứa con hoảng loạn và sợ hãi, nó cho thấy sự bất lực của những đứa con không cứu nổi cơn đau thân xác bởi bệnh tật của người cha. Và những quan niệm hẹp hòi, nông cạn, về nhân tính hay cụ thể ở đây là chữ hiếu đôi khi gián tiếp đày đọa cha mẹ mình, thậm chí đứa con đã trở thành kẻ ác. Tôi có một đứa con gái lấy chồng rất xa. Thời gian đầu, ý nghĩ đứa con gái yêu thương của mình lấy chồng quá xa đã làm tôi mất ngủ. Nhưng tôi đã đi qua được sự khủng hoảng tâm lý ấy khi nhận ra rằng: cha mẹ chỉ thấy hạnh phúc khi những đứa con có một cuộc sống bình yên, cho dù chúng ở rất xa. Còn nếu chúng ở cùng họ trong một ngôi nhà nhưng lúc nào cuộc sống của chúng cũng đầy đe dọa và bất trắc thì họ không thể nào có hạnh phúc khi nghĩ về những đứa con của mình. Một người con có hiếu là biết làm cho cha mẹ yên lòng. Đây không phải là một quan niệm mới về chữ hiếu, đó chính là bản chất của nó mà đến lúc này không ít người trong chúng ta mới nhận ra.
Trong truyện ngắn Tướng về hưu, có những chi tiết đã làm cho người đọc rùng mình đến buồn nôn. Một trong những chi tiết ấy là người ta nấu nhau thai nhi cho lợn ăn. Nguyễn Huy Thiệp đã “đâm một nhát dao” xuyên qua tim người đọc. Nhưng tôi nhìn thấy ông gục ngã đầu tiên. Ông là kẻ đi loan báo về một cái chết trong đời sống nhân tính Việt. Ông là kẻ đau đớn, là kẻ rùng mình hoảng sợ trước tiên thì sau đó ông mới có thể làm cho người đọc đau đớn, rùng mình và hoảng sợ.
Nó ám ảnh người đọc để họ không thể thỏa mãn như đọc một cuốn sách giải trí và cho phép mình quên đi chính những câu chuyện mà mình chứng kiến. Có thể trong thực tế đời sống người ta không làm chuyện đó, nhưng nhà văn phải đẩy câu chuyện đến tận cùng sự thật bằng chính sự sáng tạo đôi khi tưởng như giá lạnh của mình. Và chỉ như thế mới đủ năng lượng phóng mũi tên “tác phẩm” chạm đến sự thật và chạm đến trái tim. Ngày nay, mức độ tội ác của con người đã lên đến đỉnh điểm.
Qua những vụ án mà báo chí vẫn hàng tuần đưa lên làm cho chúng ta kinh hãi hơn cả khi chúng ta đọc những chi tiết như vậy trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mấy chục năm về trước. Từ mấy chục năm trước, Nguyễn Huy Thiệp đã dự báo sự suy đồi đạo đức của con người đến mức làm cho không ít người hồi đó và ngay cả bây giờ nổi giận và kết tội ông như một “tội phạm” chà đạp lên những quy chuẩn đức hạnh người Việt. Nhưng trong cách nhìn của tôi, ở một phía, Nguyễn Huy Thiệp chính là một trong những người bị tổn thương nặng nề nhất, bị xúc phạm nhất khi phải chứng kiến sự đổ vỡ nhân tính ấy.
Nhân vật Bổng trong Tướng về hưu là một kẻ tưởng như không thể nào có được những cảm xúc nhân văn nữa nhưng đã nức nở khi được gọi là người: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Khi viết như vậy, là khi nhà văn bước đến và tìm thấy, và thừa nhận nhân tính trong một con người mà hầu như cả xã hội khinh bỉ và vứt đi. Nhà văn đã cứu vớt tâm hồn của một người như Bổng. Tôi thấy nước mắt chảy trong những dòng ông viết. Chủ nghĩa nhân văn không thể là những gì khác thế được.
Nhiều bạn đọc hồi đó đã rùng mình kinh hãi khi nghĩ đến một gia đình truyền thống đang bị phá vỡ như trong KHÔNG CÓ VUA và khi chứng kiến cảnh nấu nhau thai nhi cho lợn trong TƯỚNG VỀ HƯU. Và chỉ sau mấy chục năm, cái rùng mình sợ hãi ấy đã trở thành sự thật trong không ít gia đình Việt Nam. Văn chương Nguyễn Huy Thiệp là văn chương làm cho người ta đau đớn, làm cho người ta phải mở to mắt nhìn vào con người họ, làm cho người ta phải thừa nhận sự thật. Và khi con người đau đớn, con người thừa nhận sự thật thì con người mới có cơ hội trưởng thành.
---
PHỤ LỤC:
Nhà văn Hàn Quốc Bae Yang Soo
NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TIẾNG VANG SÂU LẮNG TẠI HÀN QUỐC.
Các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã vượt ra ngoài biên giới. Lần này, là tiếng vang sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.
Là một nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, tôi thực sự vui mừng khi đón nhận các tác phẩm văn học Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm đã dịch sang tiếng Hàn.
Mới đây, một bản dịch tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã được NXB Văn Học và Trí Tuệ (문학과지성사/Moonji Publishing Company) xuất bản ngày 16-3 tại Hàn Quốc. Nhân dịp này, tôi đã trò chuyện với dịch giả của cuốn sách, tiến sĩ Kim Joo-Young.
*Điều gì khiến cô dịch cuốn sách này?
Tôi dịch là vì muốn chiêm nghiệm sâu sắc hơn về tác phẩm Chảy đi sông ơi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Khi tôi đang theo học nghiên cứu sinh của khoa văn học Trường đại học KHXH&NV TP.HCM, chồng tôi cũng theo học thạc sĩ cùng khoa. Qua anh, tôi biết là trong lớp, anh đã được nghe giảng khá sâu về tác phẩm này.
Tôi từng nghĩ rằng nếu đọc thì chỉ nắm được ý chính thôi, nếu dịch thì tôi có thể hiểu biết cụ thể, sâu sắc hơn về tác phẩm này trên nhiều phương diện. Điều đó thôi thúc tôi quyết tâm dịch truyện ngắn này sang tiếng Hàn.
*Dịch và xuất bản bản là hai việc khác nhau. Lý do cô quyết định xuất bản?
Sau khi dịch xong tác phẩm Chảy đi sông ơi, tôi bắt đầu quan tâm đến tác phẩm Không có vua và tiếp tục dịch luôn. Tiếp nối quá trình hoàn thành hai bản dịch tương đối dài hơi này, tôi bắt đầu quan tâm đến việc xuất bản một quyển sách dịch.
Tuy nhiên, những người trong giới xuất bản xung quanh tôi không hứng thú với tác phẩm không có chủ đề "chiến tranh". Tôi đã gửi hai bản dịch trên đến tạp chí Asia để hỏi có in không nhưng họ từ chối. Rất may là sau đó, bản dịch Không có vua đã được đăng trên Các nhà văn (작가들 Writers) - tạp chí của Hội Nhà văn Incheon, với sự giới thiệu của nhà văn Kim Nam-il.
*Có những khó khăn như vậy nhưng cuối cùng cũng xuất bản được, xin cô kể lại.
Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi tìm nguồn tài trợ khác và đăng ký tham gia Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan. Nếu được dự án này hỗ trợ, các bản dịch sẽ được xuất bản ngay tại Hàn Quốc. May mắn thay, năm ấy, tức là năm 2019, một số tác phẩm văn học thiểu số (của các nước không phải lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức...) đã cùng được chọn.
Sở dĩ tôi nói may mắn là vì Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan thường chủ yếu chọn các tác phẩm viết bằng các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Nhật, Trung...
*Trong quá trình dịch, cô mất bao lâu và làm thế nào để giải quyết vấn đề bản quyền?
Vì tôi có quen biết với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ khi đăng truyện Không có vua trên tạp chí Các nhà văn nên ngay khi được chọn vào dự án hỗ trợ dịch thuật, tôi đã giúp thương thảo hợp đồng bản quyền giữa nhà xuất bản và tác giả.
Suốt thời gian dịch truyện, tôi giữ liên lạc với tác giả, chủ yếu qua tin nhắn. Thời gian dịch mất khoảng 1 năm rưỡi, từ 2018 - 2019, lâu vì trong thời điểm ấy tôi vừa dịch tác phẩm vừa bảo vệ luận án tiến sĩ.
*Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều truyện ngắn lắm, cô chọn ra 15 tác phẩm như thế nào?
Tôi chọn ra 15 tác phẩm để dịch. Sau khi tìm hiểu qua nhiều tư liệu, tôi chọn ra những tác phẩm nổi tiếng hoặc đáng dịch, loại trừ những tác phẩm liên quan đến lịch sử và văn học trong số truyện ngắn của tác giả.
Ban đầu, Daesan không chấp nhận các tác phẩm do dịch giả lựa chọn, biên tập. Tuy nhiên, đối với trường hợp văn học Việt Nam, họ cho phép dịch giả tự chọn. Tất nhiên tôi đã giải thích tình huống xuất bản ở Việt Nam và họ đã đồng ý.
*Điều khó nhất khi dịch văn chương Nguyễn Huy Thiệp là gì?
Vì chuyên ngành của tôi là dịch thuật văn học nên tôi không thể lười biếng trong việc dịch tác phẩm. Nếu tôi cảm thấy không chắc chắn về điều gì dù là nhỏ nhất, tôi cũng có thể sai, nên tôi luôn hỏi những người Việt Nam quen biết. Tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu dữ liệu và liên tục tham khảo thêm tri thức trên Internet.
*Tác phẩm đáng nhớ nhất mà cô dịch là gì?
Tôi nghĩ tác phẩm đáng nhớ nhất là Chảy đi sông ơi. Nhờ tác phẩm này mà tôi dịch được cả cuốn Tuyển tập tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp... Khi dịch mấy trang cuối, tới cảnh nhân vật chính bật khóc, tự nhiên tôi cùng rơi nước mắt. Đó là tác phẩm có ý nghĩa nhất đối với tôi, vì vậy tôi đã đặt nó ở vị trí đầu tiên trong bản dịch.
Tôi cũng tự quyết định thứ tự sắp xếp các tác phẩm, nhà xuất bản tôn trọng lựa chọn và quyết định của tôi về mọi mặt.
*Độc giả Hàn Quốc phản hồi thế nào sau khi xuất bản?
Đã hai tuần kể từ khi bản dịch được xuất bản, tôi rất vui vì độc giả Hàn Quốc phản hồi tốt hơn tôi nghĩ. Thẳng thắn mà nói, các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có thể không phù hợp với thị hiếu của độc giả Hàn Quốc ngày nay.
Tuy nhiên, cũng giống như các tác phẩm của ông ấy đã vượt ra ngoài biên giới và gây được tiếng vang với người phương Tây, tôi tin rằng chúng sẽ có thể gây được tiếng vang lặng lẽ mà da diết, âm thầm nhưng sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.
Bài trả lời phỏng vấn của TS. Kim Joo Young do GS.TS Bae Yang Soo thực hiện đăng trên báo Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 14/4/2023.