Trích từ trang mạng của Sơn Hoàng Vũ 26-10-2025
-----------
Trong các nhà
văn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong
lãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu
hòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt
khoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa
bị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa,
lai căng, lưu manh, lố bịch.
Thế giới tiểu
thuyết của Võ Hồng không có người đáng ghét, chỉ có đa số những người hiền, một
thiểu số rất nhỏ còn lại là những kẻ đáng thương.
Thế giới tiểu
thuyết của Doãn Quốc Sỹ cũng vậy.
Tuy là một
trong những người sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, ông như một người anh cả ngồi
riêng một góc nhìn bạn bè cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn lớn tiếng đòi tắt mặt
trời, tát cạn biển, giương cao cờ; khói thuốc lá phun mù phòng khách, chai bia
rỗng vất khắp nền nhà, để rồi khi tàn cuộc, bạn bè lăn quay ra ngủ, người anh
cả lặng lẽ thu dọn những gạt tàn thuốc, những rác rưới lẫn lộn với quần áo bẩn,
và đắp lên người họ những tấm chăn ấm.
Nhiều người
trong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn Quốc
Sỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng
có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản
chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng
nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của
họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên,
những Hãn, những Khiết của Khu Rừng Lau, những Thiệu những Yến của Dòng Sông
Định Mệnh, tuy mang cái thao thức rất-lịch-sử, nhưng lối sống của họ, lối nói
năng của họ phảng phất lối nói lối sống của những Dũng, những Loan, những Độ,
những Hào của Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt.
Cùng một nhóm
Sáng Tạo, những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ khác một trời một vực với Bếp Lửa của
Thanh Tâm Tuyền, hay Tùy Bút của Mai Thảo.
Không phải
Doãn Quốc Sỹ, như một nhà nho cuối mùa, đã mất hết khả năng thích ứng và tiếp
thu cái mới. Ông là người khao khát học hỏi, nhạy cảm trước sự đổi thay, và có
điều kiện cũng như kiến thức tiếp xúc với cái mới hơn nhiều nhà văn đồng thời.
Doãn Quốc Sỹ
từng du học ở Hoa Kỳ một thời gian. Hồi hương, ông viết cuốn Sầu Mây, nhân vật
chính đã có mẫu mắt xanh, mái tóc vàng, mũi cao, da trắng. Nhưng nhân vật ấy mê
ca dao Việt Nam, như Miên như Kha, lãng mạn đôn hậu như Yến. Qua đôi mắt quan
sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông
dành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm
nhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao
thì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vĩ cầm, hoặc dương
cầm.
Một người có
tâm hồn như vậy không thể thích ứng với những nghề đòi hỏi óc mưu mẹo, đòi hỏi
khả năng đối phó với nhiều hạng người phức tạp. Cũng không thể thích ứng với
những vụ trình diễn chiêng trống xập xình, cờ quạt mũ mãng sặc sỡ. Nếu cho rằng
cái tính trời sinh là biểu hiện của định mệnh thuyết, thì định mệnh đã dành sẵn
cho Doãn Quốc Sỹ một nghề: Nghề giáo. Những ước mơ cao đẹp ông ấp ủ, tình yêu
người yêu đất, niềm tin ở Tự do, Công bằng, Lẽ phải, chỉ có cơ hội thực hiện và
quảng bá qua hai công việc mà Doãn Quốc Sỹ cho là thích hợp nhất đối với ông,
đi dạy và viết văn.
Suốt hai mươi
năm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học trò
ông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêu
nghề, một nhà văn mực thước và nhân ái. Không có ai nhớ về Doãn Quốc Sỹ như một
kẻ giương cờ gióng trống hô hào một cuộc cách mạng văn chương, hoặc một ông vua
xuống đường hô hào lật đổ cái này để bày cái khác. Kể cả khi viết về những kinh
nghiệm của ông trong thời kháng chiến, kinh nghiệm về người Cộng sản, Doãn Quốc
Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không "nổ" như
Nguyễn Mạnh Côn, không "độc" như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng
biết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủ
thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn mà
Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.
Nhớ về ông,
phần lớn bạn bè, học trò hay độc giả nhớ tới một mẫu người Việt Nam thường thấy
nên thành tiêu biểu: Hình dáng mảnh mai nhưng rắn chắc, khuôn mặt xương xương,
nước da nâu, đi đứng chậm rãi, và trên môi luôn có một nụ cười hiền lành. Một
người ung dung và tự tín, bằng lòng với những điều mình làm và cuộc sống mình
có. Theo quan niệm ngày trước, ông không phải là típ người "Khẳng khái cần
vương" mà thuộc loại "Thung dung tựu nghĩa".
Doãn Quốc Sỹ
chọn cái khó "Thung dung tựu nghĩa" vì bản tính chứ không phải vì cho
rằng "Khẳng khái cần vương" là việc dễ không đáng làm. Sự lựa chọn đó
ít va chạm quyền lợi kẻ khác, lại quảng bá tuyên xưng những điều tốt đẹp nên
làm lợi cho xã hội. Lẽ công bằng bắt buộc người đời phải mến yêu ông. Lối sống
ông chọn không rực rỡ, không thời thượng, thì người ta cũng sẵn sàng dành cho
ông một chỗ đứng yên ổn tịch mịch, để ông tiếp tục ươm những mầm non yêu đời,
yêu người, yêu tổ quốc.
Doãn Quốc Sỹ
được hưởng thành quả những điều mình làm trong hai mươi năm bằng một vị trí
xứng đáng trên văn đàn, một địa vị tôn trọng trong giáo giới, và một nếp sống
gia đình yên ấm, trong con hẻm đường Thành Thái.
Nhưng rồi tất
cả đều khác...
Trong những
ngày hoang mang lơ láo đó, giới viết lách Miền Nam vẫn thường gặp nhau trên phố
Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do để chứng kiến cảnh những tác phẩm tim óc của mình bị
đổ từng đống hoặc bày la liệt ở vỉa hè bán solde cho những ai còn muốn giữ chút
dư hương của một quá khứ đã mất. Lái sách, ngoài những tay buôn bán cũ chuyên
nghiệp còn có những nhà văn, nhà thơ thất cơ lỡ vận gia nhập vào lãng. Người
mua gồm đủ thành phần: Những người mê sách, những người tưởng 30/4 cũng giống
như những cuộc đảo chính chỉnh lý trước đây, những chú bộ đội tò mò, những đồng
bào miền Bắc chịu đựng mười mấy năm một gánh nặng mà không dám kêu than muốn
tìm một tâm hồn đồng điệu...
Tác phẩm và
tác giả cùng nhìn nhau bùi ngùi giữa cảnh bát nháo hỗn loạn của cuộc đời.
Trong lúc
những người khác hối tiếc không nhanh chân hay hớn hở cho hợp thời, tôi thấy
Doãn Quốc Sỹ vẫn ung dung, điềm tĩnh. Ông biết rõ những gì đang chờ đợi ông,
nhưng ông quyết định ở lại. Ông nói ông không thể rời bỏ quê hương được. Ông
không lạc quan tếu, cũng không tuyệt vọng. Tôi nhớ ông nói nếu có gặp hoạn nạn
vì những gì đã viết thì cũng đành chịu, vì không khác được. Ông phải viết những
điều cần viết, và sẽ ráng viết tiếp những điều cần viết. Không nói ra, nhưng
chúng tôi biết ông ngầm cho rằng muốn có chất liệu viết được những điều sẽ
viết, ông phải ở lại. Không hối tiếc, không hớn hở.
Ông bị bắt
lần đầu giữa năm 1976, bị đày lên những trại tập trung tệ hại nhất ở cao
nguyên, rồi do can thiệp của dư luận quốc tế, ông được phóng thích năm 1981.
Ông ra khỏi nhà tù được vài tháng, ngẫu nhiên tôi được gặp ông trong bữa
"tiệc" tối do một hoạ sĩ đứng ra khoản đãi.
Anh bạn họa
sĩ (Vũ Hối) có một bức tranh lưu lạc ở nước ngoài từ trước 1975 và có tin bạn
bè ở hải ngoại gửi về cho biết tác phẩm của anh được một hàn lâm viện mỹ thuật
chọn bảo tồn. Bức tranh đó, sau này tôi thấy nhiều cơ sở sản xuất tranh sơn mài
ở hải ngoại lấy mẫu sản xuất hàng loạt. Anh họa sĩ vô cùng hân hoan, nên xoay
một món tiền nhỏ, nhờ một người quen nấu cho nồi cà-ri gà, mua bánh mì và một
ít nem chả, thế là đủ làm tiệc vui khoe với thân bằng cố hữu. Tôi nhớ hôm ấy
món cà-ri gà còn được dặm thêm bằng tiếng đàn nguyệt của một ông hoàng Huế đa
tài, và giọng ngâm của Hồ Bắc. Thơ cổ kim theo tiếng đàn khoan nhặt chỉ làm
nặng lòng những kẻ bẽ bàng lơ láo là đám văn nghệ sĩ chiến bại, gồm đủ mọi
ngành, họa có, văn có, thơ có.
Doãn Quốc Sỹ
xin phép về sớm khi tiệc chưa tàn, sau khi một người trong tiệc cao hứng hứa
nếu ai có tác phẩm cần gửi ra nước ngoài thì anh sẽ tìm cách giúp đỡ.
Tôi tiễn ông
ra cửa. Nhà người bạn cho mượn làm nơi hội họp ở khu vắng vẻ, bên cạnh dòng
sông và cách xa đường cái bằng một khu vườn. Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông về
những năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoài
bảo rằng từ khi bị bắt, ông cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diện
bích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồi
nói:
“Anh em ở
ngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ được
tư cách".
Ông nói câu
ấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từ
trong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưng
ánh mắt vẫn sáng vui. Nhân tiện, tôi chào từ biệt ông, thấp giọng thú thực tuần
sau tôi sẽ vượt biên. Ông im lặng một lúc, rồi nói:
“Anh em lần
lượt đi hết, cũng buồn. Nhưng nếu không thể ở lại được nữa, thì cũng đành
vậy... Qua bên đó có khi lại viết được những điều cần viết".
Nghe ông nói,
lòng tôi nhẹ lại. Trước đó, đôi lúc không nhịn được, tôi thổ lộ chuyện toan
tính ra đi với vài bạn thân, họ đều có giọng trách. Tôi phải nại cớ này cớ nọ:
Nào sống lêu bêu vô tích sự chỉ làm gánh nặng cho vợ con, nào không thể sống
mãi trong trạng thái hồi hộp, nào mình không phải là loại activiste, militant.
Câu trả lời của Doãn Quốc Sỹ đầy thông cảm và nhân ái, tôi xem như một món quà
ý nghĩa một người đàn anh gửi cho người em vào lúc giã biệt.
Chuyến đi ấy
thất bại, và tôi chỉ đi thoát vào chuyến thứ 5, cuối năm 1981. Cuối năm 1982,
tôi được đi định cư tại thành phố Houston Hoa Kỳ sau 11 tháng chờ đợi ở đảo.
Đặt chân lên miền đất tự do, tôi ngấu nghiến đọc hết sách báo của 7 năm lưu
vong. Trong một vài truyện ngắn, trong một cuốn tuyển tập, tôi nhận ra được cái
văn phong đôn hậu, thung dung và lãng mạn một thuở. Tôi đoán già đoán non tác
giả, và được một vài bạn hữu lấp lửng xác nhận.
Doãn Quốc Sỹ đã viết những điều cần viết, và sẵn sàng ung dung chấp nhận tất cả mọi hậu quả, trong khi không bao giờ, phải, ông không bao giờ tự nhận mình là một chiến sĩ, một người đấu tranh. Trước sau ông vẫn là một nhà giáo kiêm nhà văn, với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai nghiệp vụ đó.
—-