( Dương Thắng điểm cuốn Ngôn Từ của Jean-Paul Sartre)
***
Liên tiếp trong hai số tháng 10 và tháng 11 năm 1963, tờ Thời
Đại Mới (Les Temps Modernes) đã đăng tải hai phần cuốn tự truyện có nhan đề
Ngôn Từ (Les Mots) của Jean-Paul Sartre. Tác phẩm mới này ngay lập tức được
đông đảo người đọc đón nhận nồng nhiệt và góp phần quan trọng thúc đẩy Viện Hàn
lâm Thuỵ Điển trao giải Nobel cho Sartre (mà ông đã từ chối). Ngôn từ trình bày
một khối lượng đồ sộ những suy ngẫm cũng như những lời giải thích rõ ràng của
Sartre liên quan đến tác phẩm của chính ông. Giống như việc phát hiện ra các
bản thảo của Proust có nghĩa là một số nhận định về Proust sẽ phải thay đổi, việc
xuất hiện của Ngôn Từ có nghĩa là một số nhận định về Sartre không còn có thể
đứng vững được nữa, hay đúng hơn là không nhà phê bình nào có thể nói gì thêm
về Sartre mà không nghĩ đến chuyện đọc Ngôn Từ và giải quyết những vấn đề rất
nghiêm trọng trong việc diễn giải văn bản của Sartre mà cuốn sách này đã đưa
ra.
Từ quan điểm văn học, Ngôn Từ có lẽ là một trong những tác phẩm
hay nhất mà Sartre đã viết.
Ngay cả độc giả bình thường cũng không khỏi bị ấn tượng bởi sự
chặt chẽ và chính xác của văn bản trong Ngôn Từ, bởi sự thoải mái và thuần thục
khi Sartre đối chiếu sắp xếp tư liệu và tạo dựng dòng chảy ký ức của mình. Có
rất ít biệt ngữ và lối hành văn nặng nề làm biến dạng tác phẩm giống như trong
"Tồn Tại Và Hư Vô" (L'Être et Le Néant) thay vào đó, cách sử dụng
nghịch lý và phản đề rất ấn tượng trong Ngôn Từ gợi nhớ lại phong cách luận
chiến xuất sắc ban đầu của "Văn Học Là Gì?", cái phong cách một lần
nữa nhắc nhở chúng ta rằng Sartre, thay vì phải dùng dùi cui truy sát các đối
thủ của mình, thường chọn cách loại bỏ họ một cách sạch sẽ, nhẹ nhàng và hiệu
quả hơn nhiều với một thanh liễu kiếm.
Từ góc nhìn tâm lý học, Ngôn Từ mang đến một cuộc hoan lạc thực
sự cho những “thám tử văn chương” thích tìm hiểu về nguồn gốc của những nghi án
văn chương, một mỏ vàng cho những người sành sỏi về những phức cảm giấu ngầm
trong tâm trí và tồn tại dai dẳng, đặc biệt khi chúng có thể liên quan đến biểu
tượng người cha hoặc một số hình ảnh tình dục rắm rối. Ngôn Từ cũng là mảnh đất
đầy hứa hẹn dành cho những người không yêu thích gì hơn là việc mổ xẻ tâm lý
nhà văn mà họ đang quan tâm và đây cũng sẽ là một cơ hội tuyệt vời cho phép họ
xem tác phẩm này một tập hợp những khung cảnh tự bộc lộ bản thân cùng với những
mối bận tâm chủ quanvà trở thành nơi để hiện ra rõ nét một nhân cách mà từ
trước đến nay trong con mắt độc giả, luôn biến ảo vô cùng phức tạp. Với họ,
Ngôn Từ đã mang đến một lý do tuyệt vời để vui mừng.
Từ quan điểm trí tuệ, Les Mots trình bày một tập hợp các quan
niệm, một loạt các diễn giải, phán xét “hồi tố” của Sartre về sự nghiệp và công
việc của chính ông. Trên phương diện này, Ngôn từ sẽ tạo ra những hoang mang
đặc biệt nghiêm trọng đối với những dạng nhà phê bình muốn nhìn nhận các văn
bản như một đối tượng trí tuệ độc lập cần phải được lĩnh hội và đánh giá theo
các tiêu chí và phương pháp phù hợp: tính mạch lạc, sự tương ứng với thực tế,
sự phù hợp của thuật ngữ với khái niệm được xác định bởi quy trình phân tích,
đối chiếu văn bản, phân tích cấu trúc ngôn ngữ… Một nhà phê bình như vậy khi
nghiên cứu Ngôn Từ sẽ vấp phải những rào cản đối với cách tiếp cận ưa thích của
anh ta. Dù nỗ lực đến mấy, nhà phê bình vẫn phải thoát ra đi ra ngoài văn bản
và xem xét nó từ những góc độ khác nhau để tìm ra những ý định chủ quan ẩn nấp
đằng sau đối tượng trí tuệ mà anh ta đang nghiên cứu.
Trong Ngôn Từ, Sartre đã tiến hành phân tích mổ xẻ thời thơ ấu
của mình để khám phá cách thức và lý do tại sao ông trở thành nhà văn. Bắt đầu
bằng một tường thuật mang tính phả hệ về nguồn gốc bên nội và bên ngoại, nội
dung chủ yếu trong Ngôn Từ vẫn dành để nói về thời thơ ấu của Sartre, quãng
thời gian Sartre từ 7 đến 11 tuổi (1912-1915). Cha của Sartre đã chết trước khi
Sartre được sinh ra và theo nhìn nhận của Sartre cái chết này giống một cuộc
chạy trốn hay một sự lừa dối đối với ông. Cậu bé Sartre được nuôi dưỡng chủ yếu
bởi mẹ, bà ngoại và ông ngoại của ông. Ông ngoại ông-Charles Schweitzer, người
có ảnh hưởng tâm lý quyết định trong cuộc đời Sartre, là một người gốc Alsace
và là giáo sư ngôn ngữ điều hành một trường tư ở Paris. Sartre khi ấy là đứa
trẻ duy nhất trong nhà, cô đơn, ngoan ngoãn và có phần được nuông chiều. Cậu
sớm chìm đắm vào thế giới sách ở trong thư viện của ông ngoại, nơi cậu làm quen
với những tác phẩm hàng đầu của văn học Pháp như Flaubert, Hugo và Corneille. Mẹ
cậu, lo lắng về cách trưởng thành trí tuệ như vậy, đã tìm cách thu hút sự chú ý
của cậu đến mảng văn học thiếu nhi mà bà tin rằng phù hợp hơn với lứa tuổi của
cậu. Sartre đọc ngấu nghiến tạp chí phiêu lưu thiếu nhi Cri-Cri, bộ sách sách
phiêu lưu của J. Michel Strogoff và Jules Verne là một trong những tác giả mà
Sartre cho là đã gây ấn tượng mạnh với ông-những câu chuyện ngông cuồng của nhà
văn Michel Zévaco (1860-1918) cũng thường xuyên được Sartre nhắc tới- Sartre và
mẹ mình cũng là những người say mê điện ảnh. Những cảm hứng cậu thu nhận từ rạp
chiếu phim mạnh mẽ tới mức khi về nhà cậu thường chìm đắm vào những câu chuyện
câu tưởng tượng khi ngồi nghe mẹ cậu chơi đàn piano, một hoạt động đượcSartre
đặt tên là "faire du cinéma" (“làm phim”) và ông coi đó là hình thức
sáng tác sớm nhất ông đã thực hiện trong cuộc đời mình.
Bị từ chối cho phép tiếp xúc với những đứa trẻ khác và với thế
giới bên ngoài, dưới sự dẫn dắt của ông ngoại và những người thân trong gia
đình, Sartre đã thay thế mọi tiếp xúc “đời thường” bằng sách và chìm đắm ngày
càng sâu vào trong thế giới của sách. Do đó, hồi ức về một thời thơ ấu gắn với
sách vở này về thực chất chính là một cuộc điều tra để dẫn tới phiên tòa xét xử
“nhà văn Sartre” của Jean-Paul Sartre, cái niềm tin đặt nhầm chỗ của đứa trẻ
này là nguyên nhân dẫn đến chứng hoang tưởng của cả một cuộc đời chỉ dành để
cống hiến cho trí tưởng tượng; trong phiên tòa này, bản cáo trạng đưa ra đã
mang đậm chất Sartre nhất mà người ta có thể hình dung: Sartre, người tự truy
tố, tự kết án mình vì sự không trung thực, và hành động viết ra sự không trung
thực này lại thu hút toàn bộ trái tim và tâm hồn của ông. Do đó, việc quay trở
lại nguồn gốc xuất phát của "nghề nghiệp" của mình đã khiến Sartre
coi sự không trung thực là tội lỗi khởi thuỷ khi nỗ lực lao động trên những văn
bản. Nhưng sự lên án dưới hình thức thú tội này cũng mang giá trị giải thoát,
thanh tẩy và thậm chí có thể dùng để xá tội: Sartre đã tự tách ra khỏi chính
mình xa đến đến mức ông có thể tuyên bố việc thanh toán chứng hoang tưởng của
mình đã hoàn thành, nghĩa là không gì khác hơn là việc giải huyền thoại về sự
hấp dẫn của văn bản, thủ phạm đã bị đã bị “vạch mặt chỉ tên” trong sự thật cuối
cùng được công bố: cuộc tìm kiếm tuyệt vọng về một sự bất tử, một khát vọng
đáng trách mong mỏi trở thành một tượng đài dành cho hậu thế...
Những định kiến sai lầm đi kèm với những hoang tưởng trên hành
trình trở thành một nhà văn mà Sartre lên án mạnh mẽ trong Ngôn Từ là gì? Đó là
: 1/ Đó là một loại chủ nghĩa duy tâm về ngôn ngữ, coi rằng từ ngữ có trước sự
vật, là tinh hoa của sự vật, và cái sai lầm khi nghĩ rằng mình đã sở hữu sự vật
một khi đã đặt tên được cho nó 2/ đánh đồng tôn giáo với văn học, xem nhà văn
như một linh mục hay người hành lễ, đi vào văn học như đi vào thánh chức, xem
rằng những cống hiến cho văn học như là một sự hy sinh, hiến tế 3/ Nhầm lẫn về
tính bất tử của văn học, chấp nhận và đánh đổi số phận nghèo hèn tủi nhục của
một nhà văn vô danh lúc còn sống để đổi lấy sự thừa nhận và tôn vinh của hậu
thế sau khi chết, một thứ quan niệm theo kiểu “ tương lai sẽ nhất định soi sáng
và mang lại ý nghĩa cho quá khi thay vì để quá khứ xác định hình thức của tương
lai”.
Tuy nhiên, một nghịch lý, như chúng ta nhìn thấy rõ ràng, lại
tái hiện trong cái kết quả bất ngờ này: để loại bỏ chứng hoang tưởng, việc viết
sẽ phải được tiếp tục thay vì kết thúc: "Tôi đã đầu tư nhưng tôi không
ngừng hoạt động: Tôi vẫn viết. Liệu còn có cách nào khác ? Đó là thói quen của
tôi và sau đó là công việc của tôi. Trong một thời gian dài, tôi cầm bút thay
gươm: bây giờ tôi biết sự bất lực của mình. Không thành vấn đề: tôi làm, tôi sẽ
làm sách; nó là cần thiết; nó đều hữu ích như nhau ”. Sartre đã vẽ ra cho chúng
ta thấy hình ảnh một nhà văn bị kết án để xem chính mình đang cố gắng viết
những tác phẩm “để đời” mà luôn không tin vào nó. Hình phạt mà Sartre tự kết án
không khỏi gây ngạc nhiên cho chúng ta : một bản án đầy nghịch lý đối với một
người bị tuyên có tội vì đã trốn tránh tình cờ thông qua văn học.
Cái nghịch lý hiển nhiên này (tạm biệt văn học bằng cách viết
Ngôn Từ- một cuốn sách đậm chất "văn học" nhất; phủ nhận việc viết và
đồng thời thừa nhận rằng còn lâu mới chấm dứt nó, thậm chí còn tuyên bố sẽ theo
đuổi việc viết lách bất chấp mọi khó khăn) có lẽ là con đường tốt nhất để hướng
tới một nghịch lý sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn : Cả đời mình Sartre đã dành để
nói lời vĩnh biệt với văn học và rằng lời vĩnh biệt không thể thực hiện được
này lại chính là động lực thực sự thúc đẩy mọi sáng tác của ông. Sartre không
chờ đợi cho tới khi sáng tác Ngôn Từ để đặt câu hỏi phê phán, thậm chí là phủ
nhận các văn bản, trong thực tế, ngay từ đầu sự cám dỗ để nói lời tạm biệt với
văn học sẽ đã tạo thành điều kiện khả thi thực sự cho việc viết lách của ông.
Nhưng Ngôn Từ là chính là nỗ lực cuối cùng để ông trả lời cho câu hỏi đầy ám
ảnh: tại sao chúng ta lại trở thành nhà văn? Và khát vọng lớn nhất, giấc mơ
mãnh liệt nhất của Sartre đã được thể hiện rõ nét trong Ngôn Từ ở dạng kỳ ảo
giống như một giấc mơ: viết mà không cần viết, biến những điều không thể viết
thành “đối tượng viết” để làm cho nó có thể viết được.
Hai dịch giả của Ngôn Từ : TS văn học Lê Ngọc Mai và nhà văn
Thuận đã nỗ lực vượt qua những thách thức rất lớn trong công việc chuyển ngữ và
họ đã rất thành công khi trao cho những người đọc một bản dịch tiếng Việt tuyệt
vời, chuyển tải được đầy đủ những vẻ đẹp tinh tế trong bản gốc tiếng Pháp của
Sartre, một vẻ đẹp bác học ( beauté savant) trên những trang viết thấm đẫm chất
trí tuệ, đa tầng ý nghĩa và động chạm tới rất nhiều lĩnh vực kiến thức phong
phú đa dạng của nhân loại.
( Bài đã đăng trên báo KH&PT)