Nguồn Sử học và đại chúng: Không nhất thiết tạo ra sự đối lập giữa hàn lâm và đại chúng
https://tiasang.com.vn/van-hoa/su-hoc-va-dai-chung-khong-nhat-thiet-tao-ra-su-doi-lap-giua-han-lam-va-dai-chung-20660/
Thảo
luận vấn đề này với nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Đức Liêm, ĐH Sư phạm Hà Nội về
mối quan hệ của đại chúng với sử học và có lối thoát nào cho sự chênh lệch nhận
thức hay không?
Anh nhận xét
thế nào về mối quan hệ giữa nhà sử học với đại chúng tại Việt Nam hiện nay?
Hướng đi nào cho các nhà sử học để các công trình sử học đến gần hơn với đại
chúng?
Lịch sử có nhiều
chức năng, tốt có, xấu có tùy vào mục tiêu của người sử dụng (cũng như các công
cụ hằng ngày chúng ta vẫn dùng, từ con dao, cái búa...). Khác với nhiều khoa
học, nghiên cứu lịch sử không phải là độc quyền của một nhóm người chuyên sâu
(gọi là sử gia). Một bác cựu chiến binh, nhân lúc về hưu nhàn rỗi ít có khả
năng mua sách toán về để bắt đầu nghiên cứu toán học, nhưng rất nhiều bác đã
mua các bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục... và bắt đầu nghiên
cứu lịch sử. Thậm chí nhiều bác xuất bản đều đặn, có ảnh hưởng hơn các sử gia
chuyên nghiệp. Là một người tìm hiểu và dạy sử, tôi thấy điều đó là tín hiệu
tốt cho việc tạo dựng truyền thống, giữ gìn bản sắc, nâng cao tri thức xã hội.
Tuy nhiên, ở một
khía cạnh khác, sự ‘’bùng nổ’’ của nền sử học - tạm gọi là phi quan phương này
cũng phản ánh những nhu cầu mới của sự thực hành tri thức lịch sử trong xã hội
Việt Nam đương đại, nơi mà dường như vẫn còn một bức tường giữa các giảng đường
đại học và nhu cầu tri thức lịch sử có tính ứng dụng của xã hội.
Nhiều người cho
rằng khoảng cách giữa hai thế giới này phản ánh sự ‘’khủng hoảng’’ hay yếu kém
của các sử gia. Tôi không nghĩ như thế. Nếu các bạn có dịp đọc một cách nghiêm
túc các công trình sử học chuyên nghiệp, sẽ thấy có rất nhiều thành tựu mới,
nhiều nghiên cứu công phu, bài bản. Thành tựu của các thế hệ đi trước giờ đang
được tiếp nối bởi các nhà nghiên cứu trẻ, đào tạo tốt, chuẩn bị kỹ lưỡng và có
nhiều ý tưởng.
Vậy vấn đề ở
đây là gì?
Có lẽ nằm ở cách
tiếp cận, cách thể hiện, và cách truyền đạt tri thức nghiên cứu. Các truyền
thống viết sử của Việt Nam không hướng đến công chúng vì đó là sử cung đình,
dành cho vương triều và một nhóm nhỏ những người thực hành chính trị. Sử học vì
thế được sử dụng như một phần của các dự án chính trị của giới tinh hoa nhiều
hơn là để truyền bá tri thức, hướng tới quần chúng...
Phải tới thời hiện
đại, đặc biệt trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX, lịch sử
mới được sử dụng như một cách thức tập hợp dân chúng, xây dựng bản sắc ở tầm
rộng chứ không phải dành cho nhóm đặc quyền.
Sẽ mất thời gian
để các sử gia thay đổi cách tiếp cận, tìm kiếm các hệ hình và cách biểu đạt
mới, cũng như xác lập vai trò nghề nghiệp mới thông qua việc đưa sản phẩm của
mình tới công chúng, hướng tới nhu cầu của công chúng.
Sự chuyển dịch của
xã hội Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua đa dạng hóa thị trường “của lịch sử
và các sử gia đúng là đang loay hoay để tìm cách thích ứng với “nền kinh tế thị
trường” của tri thức này.
Trong nỗ lực
rút ngắn khoảng cách giữa giới hàn lâm với đại chúng, các nhà sử học có ưu điểm
và hạn chế nào?
Có lẽ không nên
tiếp cận từ góc độ ưu điểm hay hạn chế, cũng không nhất thiết tạo ra một sự đối
lập giữa giới hàn lâm và đại chúng. Không có một ranh giới cụ thể nào phân chia
tri thức này thuộc về hàn lâm, tri thức kia thuộc về đại chúng.
Trước hết phải xác
định rõ rằng dù là tri thức của ai đi nữa, để được gọi là ‘công trình nghiên
cứu lịch sử’, chúng cần tuân theo các nguyên tắc của nghiên cứu khoa học. Trận
đấu bóng đá, dù là giải nghiệp dư hay giải chuyên nghiệp đều theo các luật chơi
chung.
Các nỗ lực đưa tri thức ra đại chúng thực ra không phụ thuộc vào hàn lâm/ chuyên nghiệp hay không chuyên mà yếu tố cốt lõi là tìm kiếm cách thức và phương tiện phù hợp để công chúng có thể tiếp nhận, để những người không chuyên sử tìm thấy sự ‘’liên quan’’ của những câu chuyện quá khứ đối với cuộc sống của họ. Con người quan tâm đến quá khứ không phải vì tò mò. Họ tìm kiếm sự hấp dẫn của sử không phải từ những khái niệm hay lí thuyết tiếp cận phức tạp. Họ tìm kiếm những câu chuyện về số phận con người, về cách thức thế hệ trước đã thành công hay gục ngã ra sao trước thách thức của thời đại mình. Đây chính là cách ngắn nhất để kết nối quá khứ với trái tim của người đọc.
Một điểm khá thú
vị hiện nay là sự thay đổi của công nghệ số làm thay đổi nhanh chóng cách thức
công chúng thưởng thức lịch sử. Chúng tạo ra nhiều kênh khác nhau để tri thức
về quá khứ lan vào cuộc sống. Về điểm này thì những người ‘’hàn lâm’’dường như
hơi ‘’chậm chân’’ so với những người bên ngoài. Họ làm truyền thông tốt, ngôn
ngữ đơn giản, hiện đại, sống động và nắm bắt các “thị hiếu tiêu dùng lịch sử”
của khách hàng. Vì thế, trong nhiều trường hợp, sử của họ ‘’đắt hàng hơn’’ của
giới hàn lâm.
Thực tiễn trở
nên phong phú khi có nhiều người trẻ mong muốn đưa tri thức lịch sử mang hơi
thở của cuộc sống đương đại. Qua nhiều dự án, họ đã cố gắng phục cổ, thậm chí
làm mới, làm mềm hóa tri thức lịch sử. Tuy nhiên dường như chúng ta vẫn thấy
thiếu vắng của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu trong những dự án như thế
này. Anh cho rằng vai trò hay chỗ đứng của giới chuyên môn, hàn lâm nên được
định hình ra sao trong làn sóng biến đổi này?
Đây là một vấn đề
thú vị và tôi nghĩ có nhiều lí do để giải thích. Hơi lạc đề một chút, có vẻ như
(có vẻ thôi nhé) truyền thống về các trí thức công, các chuyên gia, về vai trò
của tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam khá mờ nhạt. Cái này chỉ là cảm
nhận cá nhân. Và điều này, tôi nghĩ ảnh hưởng đến văn hóa ‘’hành đạo’’ của các
trí thức, và chuyên gia ở Việt Nam chăng.
Điểm thứ hai là
khoa học: từ lí thuyết đến ứng dụng có độ trễ về mặt thời gian, ngay cả khoa
học tự nhiên cũng thế, chứ đừng nói đến khoa học xã hội. Để ‘’ứng dụng’’ được
một tri thức/ vấn đề lịch sử (khoa học xã hội) còn là một câu chuyện khác nữa.
Cảm ơn anh
về cuộc trao đổi!
Tuấn Quang thực hiện