Trên trang mạng Nghiên cứu lịch sử năm năm về trước, tôi từng đọc được bài viết mang tên “Nguyễn Trãi: bề tôi của bốn dòng vua” của Lê Tư
https://nghiencuulichsu.com/2018/01/18/nguyen-trai-be-toi-cua-bon-dong-vua/
Bài viết khiến tôi sửng sốt, vì cái
thiên hướng tôi muốn tạm gọi là đảo chiều lịch sử, mà thiên hướng này lại không
cưỡng nổi do nơi khả năng bao quát tư liệu và sự định hướng mới mẻ của nhà nghiên cứu.
Có lẽ do sự đọc VIỆT SỬ ở tôi còn
quá ít nên bài viết về Nguyễn Trãi sinh bất ngờ chăng.
Nhưng hóa ra không phải. Càng ngày
tôi càng bắt gặp cái xu thể xem xét này bộc lộ ở những tài liệu dịch gồm cả
những cuốn sử Việt tiếng Hán viết từ thời cổ lẫn những nghiên cứu Âu Mỹ mới ra
đời gần đây…
Ví dụ nổi bật nhất là cuốn Cuộc nổi dậy của Tây Sơn (George Dutton:
Tây Sơn uprising )Lê Nguyễn dịch
Tôi tự đăt câu hỏi “chẳng nhẽ giữa
thực tế lịch sử và “những gì mà ở trong nước chúng
ta gọi là sử và lăm lăm tính chuyện truyền lại cho các thế hệ sau” lại cách biệt đến
thế này ư”.
Tôi chỉ thấy loạt bài của Lê Tư hồi
ấy đầy sức thuyết phục mà dư luận thì lại quá thờ ơ
Dù vậy, tôi đã giới thiệu thành tựu
nghiên cứu này trong bài viết ngắn trên blog cá nhân 03
tháng 3, 2018
vuongtrinhan.blogspot.com/2018/03/lam-sao-e-kiem-chung-cac-thong-tin-lich.html
Còn bài viết sau đây thì của nhà
nghiên cứu trẻ Quang Phan đưa trên Fb của tác giả ngày 6-6-2023. Cũng kể lại
một chuyện động trời là Quang Trung Nguyễn Huệ đã hàng phục Càn Long như thế
nào.
Xin giới thiệu để các bạn cùng đọc.
*********
TẠI NHIỆT HÀ, QUANG
TRUNG MÒN GỐI SẮT.
TRỌ BẮC KINH CHIÊU
THỐNG GỬI LÒNG SON
Giữa thế kỷ 20, một
vài nhà sử học Việt Nam tiêu biểu như Trần Huy Liệu và Văn Tân đã xem xét các
sự kiện của thời đại Tây Sơn và tìm thấy ở đó yếu tố Cách Mạng.
Họ cố gắng mô tả cuộc
nổi dậy của Tây Sơn như là: tiến bộ xã hội, lật đổ các thế lực chính trị thủ
cựu, tham nhũng, chấm dứt sự chia rẽ đất nước và bảo vệ quốc gia trước các mối
đe dọa bên ngoài và phát huy tinh thần bản địa.
Cách diễn giải này đã
che đậy những phức tạp thật sự của thời kỳ Tây Sơn nhưng không sao hết, nó phù
hợp với yêu cầu chính trị của nhà nước tại miền Bắc Việt Nam sau 1954 (1)
Khi Tây Sơn ra Bắc,
cung đàn trong Đại Nội vang lên thì có cái khung cảnh như thế này đây:
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê
điên đảo
Mãi vui suốt đêm không biết chán
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn
Ý khí hào hoa át cả các bậc vương hầu
Ðám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng
kể
(2)
Bên cái cảnh tướng sĩ
Tây Sơn đãi tiền con hát, coi tiền bạc rẻ như đất bùn, vui chơi thâu đêm thì ở
còn một Bắc Hà khác. Nạn đói đến độ có người phải bán vợ cho viên tướng Tây Sơn
đổi lấy trăm lạng bạc đem về nhà cứu mẹ cứu con (3).
Kinh tế khó khăn,
thành thị - thương cảng tiêu điều. Trong nam ngoài bắc không còn gì để mà cướp
cho ra tiền, lại phải đối đầu với kẻ địch mạnh và rất nhiều cựu thù đang lăm le
quật khởi, Quang Trung đã sớm tính tới việc nghị hòa với nhà Thanh.
Đường tới Nhiệt Hà
Thật lòng thì có vẻ
Càn Long không muốn sa lầy tại Annam. Ông ta nhân danh Hưng diệt kế tuyệt đem Chiêu Thống về lại thành Thăng Long, sắc
phong Annam Quốc Vương. Cận tết Kỷ Dậu, ông hối thống đốc họ Tôn nhanh chóng
rút quân về. Việc Càn Long giao cho Tôn Sĩ Nghị chỉ có vậy.
Tôn
Sĩ Nghị sau khi đã sắp xếp yên ổn cho Lê Duy Kỳ rồi hãy thừa thế cho quân tỉnh Điền [cánh quân Vân Quí] rút về theo lối Việt Tây [Quảng Tây] rồi sau khi tiến khẩu lại theo đường Việt Tây về tỉnh Điền nhưng đừng quá nhiều để những nơi như Tuyên Quang, Hưng Hoá thu phục rồi mà quân đóng chơ vơ ở đó để có thể làm cho toàn cục đổ vỡ không hoàn thành.
Trẫm nghĩ họ Lê lập quốc đã lâu, khí vận suy dần gần đây nhiều phen loạn lạc mà Lê Duy Kỳ lại là người nhút nhát bất tài, chung quanh không có ai phò tá. Xem tình hình đó chắc là lòng trời đã chán ghét họ Lê, nếu như có thể bắt được bọn Nguyễn Huệ đem ra chính pháp mà Lê Duy Kỳ không thể tự mình chấn tác làm cho được việc, ví thử có một Nguyễn Huệ khác lại nổi lên làm loạn thì lẽ nào lại làm phiền binh lực thiên triều thêm mấy lần?
Trẫm biện lý công việc đều thuận theo trời mà làm, nay trời đã ghét họ Lê mà trẫm lại muốn nâng đỡ thì không phải là tôn kính lòng trời, là đạo phủ ngự thuộc quốc vậy. Việc tiến tiễu Quảng Nam lúc này chưa thuận tiện để làm, vậy hãy tuân chỉ tức tốc quay về không nên ở lại nơi đó thêm nữa (4).
Chỉ dụ này còn chưa
tới nơi, Tôn Sĩ Nghị đã bại binh tháo chạy, Càn Long càng cho rằng Annam không
dễ bình định. Giả sử có dốc ½ quốc khố (30 triệu trong số 60 triệu lạng) thì
đánh được mà không chắc giữ được.
Vậy thì Lê Duy Kỳ hay
Nguyễn Quang Bình (Nguyễn Huệ) chẳng quan trọng. Quan trọng là Annam mãi là
Annam, bất chiến tự nhiên thành.
Thêm việc chả bằng
bớt việc, soi gương lịch sử, Càn Long cho rằng: “Huống chi An Nam dân tình phản phúc, trước đây những nước thắng được họ [tức là các triều đại Hán, Minh…] lấy làm quận huyện, chẳng bao lâu cũng sinh biến cố, trong lịch sử đã có gương xe đổ rồi” [nên bây giờ chẳng nên đi theo vết cũ].
Trong chỉ dụ cho Phúc
Khang An, Càn Long nhắn nhủ: Nguyễn Huệ bất quá là tên thổ mục nước Annam, ngày nay nước ta lại toàn thịnh, nếu tập trung binh lực cho hùng hậu bốn đường cùng tiễu trừ việc đánh thẳng vào sào huyệt của y có gì khó đâu. Thế nhưng nước này xưa nay nhiều chướng lệ, không khác gì Miến Điện. Có lấy được đất cũng không bõ công giữ, có lấy được dân cũng không bõ công cai trị, việc gì phải đem binh mã, tiền bạc lương thực của Trung Quốc tiêu phí vào chỗ nóng nực, hoang liêu vô dụng như thế? (5)
Phía Annam thì sao?
Chiến loạn liên miên, tiền của hoang phí, sức nước suy kiệt, vị thế chính trị
bấp bênh, Quang Trung lại phải đối diện với với kẻ thù lớn hơn gấp bội ấy là
Đại Thanh đế quốc. Cho nên ngay nhà vua tính kế hòa với Thanh, chủ trương “lấy
bạch ngọc thay can qua, chuyển binh xa thành hội áo xiêm” (6).
Phúc Khang An huy
động quân 4 lộ dọa nạt thảo phạt Tây Sơn. Bốn lộ quân ấy gồm lục đạo: Vân Nam,
Quảng Tây. Thủy đạo chia hai đường một từ Khâm Châu hiệp lực với lục quân, đánh
vào khu vực Bắc Bộ, lại một đạo thủy quân nữa từ Phúc Kiến đánh thẳng vào Thuận
Hóa.
Dậm dọa thế, nhưng Phúc lại biên thư cho vua
Quang Trung mách bảo cách nói năng khi tấu thư lên Càn Long.
Đại khái Phúc khuyến
Quang Trung thế này: Nhà Lê thất ngôi, dân chúng bơ vơ, không theo, tôi phải
đưa quân ra chẳng ngờ gặp phải quân nhà vua (Càn Long), tình thế dữ dội, nếu bó
tay thế nào cũng bị giết hết, nên phải chống lại. Phúc còn để ngỏ khả năng thế
này: Nếu mà lời lẽ cung thuận như thế thì chắc Đại Hoàng Đế thương tình cho chủ
trì việc nước.
Phía Tây Sơn vẫn cứng
giọng. Đại Nam Thực Lục quyển 30 Ngụy Tây Liệt truyện chép lại cái lời tấu biểu
của vua Quang Trung hạch tội Tôn Sĩ Nghị, ví quân Thanh như chuột trong bình,
đụng phải “dân binh ba ấp cùng theo” mà tan vỡ chạy bốn phía (xem chú thích 6).
Tờ biểu ấy bị quan chức nhà Thanh trả lại kèm
câu hỏi: muốn binh đao hay muốn cầu phong? Quang Trung bèn ủy nhiệm cho Ngô Thì
Nhậm chuyên tâm soạn thảo thư từ bang giao. Quả nhiên lời thư hiền hòa nhũn
nhặn không khác khuyến dụ của Phúc Khang An (7).
Có cứng có mềm, chung
quy vẫn là “Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”. Cuộc hòa đàm mở ra. Muốn thế
thì phải có người để mà hắt tội.
Người được chọn chính
là Lê Chiêu Thống. Tội bại binh được Thanh đình (từ Tôn Sĩ Nghị, Phúc Khang An,
đến cả các đại thần và Hoàng đế Càn Long) nhất tề đổ lên đầu Lê Chiêu Thống.
Rằng ông ta thấy giặc (Tây Sơn) kéo ra thì chạy trước, khiến lòng quân hoang
mang hậu quả là thất bại: “Lần này Nguyễn Huệ quay trở lại quấy nhiễu, Lê Duy
Kỳ nghe tin chạy trốn trước khiến cho dân trong nước Annam hoảng loạn, tình thế
khẩn trương làm cho quan binh bị cắt đứt. Các đề đốc tổng binh tướng lãnh hầu
hết đều tổn thất” (8.)
Cái tội này nghe đã
thấy vô lý rồi! Nghị theo lời Càn Long đưa quân rước Chiêu Thống về lại Thăng
Long, quyền nghi quân đội đều ở tay Nghị, làm gì có chuyện Chiêu Thống hoảng sợ
chạy trước khiến binh Thanh bại như núi đổ. Nhưng chẳng sao cả!
Lê Chiêu Thống - Tốt đi đến nước cuối
cùng của một đời chìm nổi long đong.
Nhắc nhở quần thần
đang lo việc biên cương phía Nam, quyết ý rũ bỏ Chiêu Thống, Càn Long viện tới Thiên
Mệnh: “Trước nay trẫm đã biết Lê Duy Kỳ là người hèn yếu, không đủ năng lực, không thể nào dấy lên được. Xem chừng Trời đã ghét bỏ họ Lê rồi, không còn phù hộ nữa. [Lại thêm] Dân tình Annam phản phúc không tin được nên ta đã sớm dáng dụ chỉ ra lệnh Tôn Sĩ Nghị tức tốc triệt binh…” (9).
Để cuộc hòa đàm xuôi
chèo mát mái, thì cả hai bên Việt (Tây Sơn), Thanh đình đều có những bước đi
làm đẹp lòng nhau. Phía Tây Sơn trao trả tù binh (800 người), trị tội những
người đã giết hại quan chức nhà Thanh trong đại chiến ở Thăng long (một cách
giả vờ hoặc ta nghĩ là giả vờ?), cho lập miếu thờ những Tướng sĩ nhà Thanh tử
trận, dâng thư xin quy phục… Nhưng cũng khéo léo từ chối các yêu cầu cống voi,
nạp đất…
Để Quang Trung yên
tâm quy hàng, Phúc Khang An lừa ép Chiêu Thống và đoàn tòng vong cắt tóc, thay
đổi trang phục. Công phu hơn, họ Phúc còn cho người tìm tới tận nơi mà Lê Quýnh
đang lẩn quất để triệu hồi sang Lưỡng Quảng, lừa ép cắt tóc đổi trang phục
(10). Lê Chiêu Thống ngây thơ tin lời Phúc Khang An, nhưng Lê Quýnh thì không.
Ông trợn mắt nói với Phúc Khang An thế này đây: Lũ chúng tao đây đầu có thể
cắt, tóc không thể cạo. Da có có thể lột, y phục không thể đổi.
Phúc Khang An mách
nước cho Tây Sơn đã đành, nhưng Càn Long mới là cao thủ trong nghề… nịnh.
Khi Nguyễn Quang Hiền
thay mặt vua chú (Quang Trung) sang nhà Thanh cầu phong vương, Càn Long đã gửi
cho Quang Hiền thịt nai do chính mình dùng súng điểu thương bắn được. Thịt nào
chả là thịt, nhưng nai do Đại Hoàng Đế bắn được thì chắc ngon gấp trăm ngàn
lần. Quang Hiền xúc động không lời nào tả hết: “Chúng tôi lại được ân thưởng
thịt nai tươi do chính tay hoàng đế dùng súng điểu thương săn được, là món chưa
từng nếm, chưa từng thấy bao giờ. Nhân dịp đó, đại hoàng đế lại ban cho quốc
vương đồ quí, chúng tôi cũng mỗi người được ân thưởng, tự hỏi có phúc chừng nào
mới được vinh dự như vậy” (11).
Nhà Thanh đãi đằng
Nguyễn Quang Hiển. Khi Hiển đến Quảng Tây, Phúc Khang An thúc ép Hiển theo tình
thực mà viết thư về báo với Quang Trung mọi lẽ về việc sang dự lễ Bát tuần.
Trong tấu biểu về
kinh, họ Phúc viết: “Trước đây bọn thần có tâu lên rằng Nguyễn Huệ tình nguyện
đến kinh đô, trong biểu văn và bẩm thiếp tuy không có những lời ấy nhưng hôm
trước khi Nguyễn Quang Hiển tiến quan thì bọn thần cũng đã giảng giải tường tận
cho y biết đại nghĩa thì y có nói rằng chủ y là Nguyễn Quang Bình đợi cho việc
nước tạm yên thì sẽ nhập kinh để triều cận thiên nhan. Bọn thần xem sắc mặt y
và lời nói cực kỳ cung kính hẳn là do lòng chí thành của Nguyễn Huệ, không phải
là Nguyễn Quang Hiển đến lúc đó mới nói như thế. Cũng vì lời nói đó do khi khẩn
yếu e rằng thông sự dịch lại có khi không đúng nên đã lấy giấy bút bảo y viết
ra thì cũng giống như lời nói, bọn thần liền đem tờ giấy đó trình lên (12).
Khi Quang Hiển (cháu
cả của Quang Trung) đi sứ cầu phong được đãi như Phó Vương, dự hàng Vương công
thai các, yến ẩm linh đình suốt đường Quảng Tây -Nhiệt Hà (so với Tào Tháo đãi
Quan Vũ thật chỉ có hơn không có kém).
Đối thủ chính trị của
Quang Trung là Lê Chiêu Thống bị lừa ép cạo đầu đổi y phục rồi đưa đi gặp phái
đoàn của Nguyễn Quang Hiển. Nhóm quật cường là Lê Quý bị tống giam… Quang Trung
nhận phong Annam Quốc Vương (tại Thăng Long thành) (13), tiếp đó là ấn Lạc Đà…
Tất cả đã đủ để cho Nguyễn Quang Bình yên tâm mà thân tới Nhiệt Hà mừng thọ Càn
Long chưa?
Mà Quang Trung không
sang bệ kiến Càn Long không được. Đây là điều kiện tiên quyết, ông phải hứa
sang thì mới được phong Vương. Võ công đánh thắng 11 ngàn lục doanh quân (sử
Thanh nói có 8700 người) chưa kể Miêu binh, nghĩa dõng, tình nguyện không đủ
khoả lấp vị thế chính trị quá yếu kém và bấp bênh của Quang Trung.
Khi Quang Trung
vận Mãn phục bệ kiến Càn Long
Khi mà Quang Hiển
đang trên đường về nước, thì Phúc Khang An đã liên tục phát hịch thư kêu Quốc
trưởng Annam sang chầu dự lễ Bát Tuần đại thọ của Càn Long đế.
Trong một bức thư,
Phúc Khang An chẳng những kể rõ hành trình của Quang Hiển, nói rõ tâm can của
vua Quang Trung rằng “Quốc trưởng bắt đầu dựng nước, muốn tâu với thánh thượng
ban thưởng cho phong hiệu là để vỗ yên nhân dân” mà còn nói rõ việc an trí Lê
Duy Kỳ (Chiêu Thống) cùng đám bề tôi, vạch rõ thời gian xuất phát đến Bắc Kinh
cho vua Quang Trung.
Hịch văn liên tiếp mấy đạo được họ Phúc phát
đi, hối thúc Quang Trung lên đường. Trong một hịch văn, họ Phúc lại nói rõ tước
phong của Càn Long cho Quốc Trưởng (Quang Trung) lên tới hàng Thân vương (14).
Những tin tức từ Phúc
Khang An, từ động thái của Thanh triều, và đặc biệt nguồn tin từ Nguyễn Quang
Hiển đã khiến Quang Trung thật sự yên tâm:
“người Annam đã thể
hiện sự nghiêm túc của mình. Nguyễn Quang Bình không chỉ hứa dẫn đầu một phái
đoàn lên tới hàng trăm người bao gồm con trai ông là Nguyễn Quang Thùy, tháp
tùng quan là Ngô Văn Sở. Ông yêu cầu cả viên quan văn là Phan Huy Ích đi tháp
tùng”.
Phía Annam còn chuẩn
bị những món quà xa hoa, lại soạn ra 10 khúc nhạc ca ngợi sự trường thọ của
hoàng đế Càn Long, những lá thư bằng vàng, cùng nhiều sản vật thể hiện lòng
trung thành với Đại Thanh.
Quang Bình (Quang
Trung) mong muốn được bệ kiến Càn Long với tư cách là bệ kiến chủ nhân, người
cha và bày tỏ quyết tâm thực hiện tâm nguyện ấy.
Càn Long (được tin)
vui mừng nói: “Vương (trỏ Quang Trung) coi ta
như cha, sao ta không coi hắn như con?” (15)
Tháng 1 năm 1790,
phái đoàn ngoại giao của Annam lên đường. Tháng 7 cùng năm tới Nhiệt Hà. Tại
đây có các sứ đoàn Triều Tiên, Lưu Cầu, Xiêm La, các thân vương Mãn Châu, đại
diện của giới quý tộc Mông Cổ. Thật là bốn phương tụ hội cùng dự lễ mừng thọ
Càn Long 80. Lễ này kéo dài trong suốt một tháng trời.
Tại Nhiệt Hà, phái
đoàn Annam gặp phái đoàn Triều Tiên. Thấy Annam Quốc Vương thân sang chúc thọ
Càn Long, phía Triều Tiên ngỡ ngàng, ngơ ngác. Sứ Triều Tiên, Từ Hạo Tu nói
rằng: Đông quốc của chúng tôi chẳng bao giờ có lệ quốc vương thân sang cống!
Annam Quốc vương đáp đại ý rằng: Annam cũng chẳng có lệ này nhưng ơn thánh
thượng (Càn Long) như giời bể nên quả nhân mới phải vượt đường xa vạn dặm sang
bệ kiến. Đó là dùng việc phi thường để báo đáp ân phi thường vậy.
Nhưng báo đáp ân phi
thường bằng việc phi thường ấy còn chả thỏa, Annam Quốc Vương đã vận Mãn phục
vào triều kiến Càn Long. Ngày 16 tháng 7, vua Annam cùng quần thần đến thăm Ngũ
Phúc Đài.
Chính trong ngày này,
họ đã yêu cầu hoàng đế Đại Thanh cho phép họ mặc Mãn phục để tỏ lòng thành
kính. Điều này khiến hoàng đế đặc biệt hài lòng, ban chỉ dụ rằng: “chấp thuận
cho Annam quốc vương Nguyễn Quang Bình mặc triều phục vào chầu”.
Càn Long còn ban cho
vua tôi Annam một bài thơ. Vua tôi Annam bèn vận Mãn Phục không búi tóc vào bệ
kiến Càn Long kính cẩn trình bày ý kiến của mình. Phan Huy Ích, Võ Huy Tân lại
theo bài thơ của Càn Long mà họa lại để tỏ lòng ngưỡng mộ (16).
Nguyên trước đó, vua
Annam đã được Càn Long ban cho một chiếc mũ có chóp mầu hồng ngọc, với lông
công ba lỗ, mũ mùa hè, áo khoác hoàng gia, cùng những đồ Mãn phục khác. Các
quan đi cùng cũng được tặng áo mũ và các phụ kiện Mãn Châu.
Bắt gặp cảnh vua tôi
Annam vận Mãn Phục vào chầu, sứ Triều Tiên Từ Hạo Tu chất vấn như sau: “Từng
nghe An Nam sứ thần búi tóc thả ra phía sau, đội mũ sa đen, mặc hồng bào áo
thụng, cài trâm đồi mồi vàng, chân đi giày da đen giống như quan phục chúng
tôi. Nay thấy quý quốc lại mặc y phục Mãn Châu, lại không bịt đầu, vậy là thế
nào? Quan phục quý quốc vốn giống Mãn Châu hay sao?’”
Câu trả lời của Phan Huy Ích, theo họ Từ: “Lời
nói có chừng lúng túng, vẻ mặt ngượng ngập”. Lại chối rằng khi về Quê hương,
chúng tôi sẽ mặc lại đồ cũ. Sau này Từ Hạo Tu có làm thơ chế nhạo vua tôi Annam
về việc mặc Mãn Phục, việc giao tình với Phan Huy Ích cũng sơ sài vì lẽ Triều
Tiên khinh rằng Annam chối quốc phục mà vận Mãn Phục tỏ lòng quỵ lụy Mãn Thanh
quá cỡ vậy.
Việc vận triều phục
như Từ Hạo Tu mô tả, đó là giữ lại bản sắc, khẳng định quyền tự trị của mình
trước thiên triều. Sứ ta, sứ Triều Tiên, sứ Xiêm La sang hội từ xưa tới nay đều
giữ nguyên cái bản sắc ấy.
Việc phái đoàn Annam
Quốc Vương tình nguyện vận Mãn phục, không bịt đầu vào triệu kiến Càn Long.
Không khỏi khiến cho sứ Triều Tiên cảm thấy ngán ngẩm. Lại ngẫm tới việc Chiêu
Thống bị Phúc Khang An lừa ép mà cạo đầu đổi y phục, Lê Quýnh tuyên thệ Thà
chặt đầu lột da không chịu mặc đồ Mãn. Thật khiến người ta xót xa, ngậm ngùi.
Sự anh hùng chung quy cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Cũng tại Nhiệt Hà,
một lần nữa ta thấy quyền lực mềm của Càn Long phủ bóng lên vinh quang của đấng
Attila phương Đông. Vinh quang của chiến thắng Đống Đa đã lui bước nhường chỗ
cho lòng xúc động, sự thành tâm của Annam Quốc vương trước Đại hoàng đế Trung
Hoa.
Tấu biểu của Quang
Trung tạ ơn Càn Long (17) đã xác tín những món y phục mà vua Quang Trung được
Càn Long tặng: "Được mong đức Hoàng thượng thi ân với mực thường thưởng
cho tôi mũ bảo thạch đính tam nhãn hồng thước hoa linh lương và bảo đới hoàng
mã quải" (18).
Vua Quang Trung nhận
áo mà "tưởng như được ân khắp cả thân thể, cử động thêm vinh". Quang
Trung còn được Càn Long Đế "ân thưởng": "Bảo thạch đính tam nhãn
khổng thước linh vĩ, tứ đoàn long bổ phục kim hoàng mãng bào san hô triều
châu" (19). Những y phục trên chỉ có tước Vương họ Vua (Ái Tân Giác La)
mới được dùng. Gần sự kiện Quang Trung tới Nhiệt Hà) thì Hoàng tử mới được
dùng.
Vậy thì còn một vấn
đề đó là Annam Quốc Vương tại Nhiệt Hà ấy có thật là vua Quang Trung hay không.
Nhiều nguồn sử liệu
của ta nói là Giả Vương nhập cận. Thanh Sử Cảo chép như sau: “Tháng 7 vào bệ
kiến ở Nhiệt Hà, cho đứng dưới các thân vương mà trên các quận vương, ban cho
thơ ngự chế, cho đội mão mang đai trở về. Thật ra Quang Bình sai em mạo danh tới,
chứ Quang Bình chưa dám đích thân tới, quỷ quyệt như thế đấy”.
Sử ta nhiều bộ cũng
cho rằng đó là Giả Vương mà thôi. Đối chiếu các sử liệu, đặc biệt các sử liệu
do nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính cung cấp, người viết cho rằng khó có khả
năng Người dẫn quan lại vận Mãn phục bệ kiến Càn Long tại Nhiệt Hà là Quang
Trung giả.
Học giả Zhaoguang Ge
cũng cho rằng đó là những việc kỳ quái không đáng tin. Nguyên văn tiếng Anh:
“Yet, this odd story is not credible”.
Như vậy chúng ta đã
khảo từ chỗ Đàng Trong – Đàng Ngoài vốn một quốc chia hai. Phong trào Tây Sơn
nổi dậy và những khó khăn chất ngất mà vua Quang Trung gặp phải ngay sau chiến
thắng Kỷ Dậu.
Tại kỳ này chúng ta
cũng đã trình bày rõ ngọn ngành cuộc hòa đàm hai phía Việt – Thanh. Nhưng bước
“giải phóng mặt bằng” cho Quang Trung sang Nhiệt Hà khá rõ. Kỳ sau sẽ nói tới
việc Quang Trung thu được những thành quả nào sau chuyến đi muôn một tới Nhiệt
Hà nhận Càn Long làm cha, mặc Mãn phục vào bệ kiến. Vua Lê Chiêu Thống ấy có
thực sự cõng rắn cắn gà nhà ra sao? Nhân phẩm năng lực chính trị của ông ấy thế
nào. Bài cũng sẽ đề cập đến những căn nguyên khiến nhà vương triều Quang Trung
sụp đổ chỉ sau 14 năm tồn tại.
Chú thích
1. George Dutton:
Tây Sơn uprising (Cuộc nổi dậy của Tây Sơn). Nguyên văn tiếng Anh: “Some
mid-twentieth-century Vietnamese historians, notably Trần Huy Liệu and Văn
Tân, looked at the political events of this period and saw a revolution (cách
ma ˙ ng).1 They characterized the Tây Sơn uprising as a focused effort to
overthrow corrupt political forces, to reunify the country, to defend the
nation against external threats, and to promote indigenous cultural elements.
This interpretation of the movement conveniently re- flected the political agenda
of the post-1954 state in North Việt Nam, even as it glossed over the true
complexities of the Tây Sơn era”.
Dịch Việt văn Sông
Hàn.
Lời người dịch: Ở đây
George Dutton đã lấy yêu cầu chính trị tại miền Bắc Việt Nam làm hệ tham chiếu.
Ông ít chú ý đến những trình bày của học giới tại Nam Việt Nam (VNCH về Tây
Sơn) chẳng hạn Tạ Chí Đại Trường khi trình bày về phong trào Tây Sơn trong Tập
san Sử Địa số 13 cũng đầy hào hứng, thi vị và cách mạng hóa cuộc nổi dậy này.
2. Nguyễn Du: Long Thành cầm giả ca. Nguyên văn chữ
Hán
盡是中和大內音。
西山諸臣滿座盡傾倒,
徹夜追歡不知曉。
左拋右擲爭纏頭,
泥土金錢殊草草。
豪華意氣凌公侯,
五陵年少不足道。
3. Vô danh thị: Tây Sơn Lược Thuật – Bản dịch của Tạ
Quang Phát Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản trang 11, 12.
4. Dẫn theo Nguyễn
Duy Chính: Tiến trình Thanh Việt nghị hòa, nhà Thanh công nhận triều đại Quang
Trung.
5. Khâm định Annam kỷ lược quyển 13, người
dịch Nguyễn Duy Chính.
6. Đại Nam Thực Lục
tại link –
Nguyên văn chữ Hán:
以帛玉代干戈,轉兵馬爲衣裳之會
〈表言:「臣本西山布衣,乘辰舉事。丙午,興師滅鄭,還國於黎。前黎王謝世,又擁立嗣孫維祁襲。維祁爲人淫暴,國內之臣若民奔愬於臣,請爲出兵除亂。丁未,臣遣一小將,以兵問其左右之助桀者。而維祁望風宵遁,自貽伊戚。戊申,臣進至都城,復委前黎王之子維監國,經遣行價叩關,備以國情題奏。而維祁之母先赴斗奧隘,委身乞援。孫士毅以封疆大臣,卻爲財色之故,將臣之表章裂擲於地,淩辱行價,意欲動眾興戎。不知此事果出大皇帝差遣,抑或士毅爲一婦人所倖邊功,以邀大利也。夫以海瀕一帶,人士甲兵不當中朝之萬一。而深澗在前,猛虎在後,眾情怕死,咸思奮勵。臣不避投鼠之謗,遂以三五邑丁相從。今年正月初五日,進至都城,冀與士毅一見,或得以玉帛代干戈,轉兵車爲衣裳之會。乃士毅之兵先來迎戰,纔一交鋒,奔潰四散。其走躲城外村莊,又爲環城民殲殺殆盡。臣入城之日,立即禁止,不得妄殺,一切送到都城。該八百餘口,臣已給之廩食。竊念本國自丁、黎、李、陳以來,世代遷革,不是一姓。有能爲南郊屏翰栽者培之,惟至公至仁而已。伏惟體天行化,順其自然,恕臣迎敵孫士毅之罪,諒臣數番款關陳奏之誠,錫臣爲安南國王,俾有統攝。臣謹當遣使詣闕,奉藩修貢,幷將見存人口回納,以表至誠。夫以堂堂天朝,較勝負於小夷,必欲窮兵黷武,以快貪殘,諒聖心之所不忍。萬一兵連不止,勢到那裏。誠非臣之所願,而亦不敢知也。」
Tờ biểu nói: Thần vốn
là người dân thường ở Tây Sơn, nhân thời làm việc. Năm Bính Ngọ đem quân diệt
họ Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê, vua Lê trước chết đi, lại dựng Tự tôn là Duy
Kỳ nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo, các quan và nhân dân trong nước chạy đến
nói với thần, xin ra quân trừ loạn. Năm Đinh Mùi, thần sai một tiểu tướng đem
quân đến hỏi tội những kẻ ở bê bên hữu giúp Duy Kỳ làm việc bạo ngược ấy nhưng
Duy Kỳ trông thấy bóng gió đang đêm trốn đi, là tự mình rước lấy sự tai vạ ấy.
Năm Mậu Thân, thần tiến đến đô thành, lại uỷ cho con cháu nhà Lê trước là Duy
Cận coi việc nước, thần đã từng sai người đến gõ cửa quan, đem hết tình nước để
tâu lên, nhưng vì mẹ Duy Kỳ đi trước đến ải Đẩu Áo, tự mình đi xin cứu viện,
Tôn Sĩ Nghị là đại thần ở chốn bờ cõi, lại vì có của và sắc đẹp, đem tờ biểu
của thần xé ra ném xuống đất lăng mạ làm nhục người sứ giả của thần, ý muốn
động chúng dấy quân. Thần không biết việc ấy quả là tự Đại hoàng đế sai khiến
chăng hay là hoặc ở Sĩ Nghị vì một người đàn bà sai khiến, cầu may nên công ở
chốn biên cương để cầu lợi lớn chăng? Kể ra, lấy một dải đất ở nơi bãi biển,
nhân sĩ giáp binh không địch được một phần trong muôn phần của Trung triều, mà
suối sâu ở phía trước, hổ dữ ở phía sau, tình mọi người sợ chết, đều tự hăng hái
lên, thần không tránh khỏi lời chê ném chuột, mới lấy dân đinh năm ba ấp cùng
đi theo. Ngày mồng 5 tháng giêng năm nay tiến đến đô thành mong được ra mắt Sĩ
Nghị, hoặc có thể lấy ngọc lụa thay cho giáo mác, chuyển binh xe làm hội áo
xiêm chăng? Thế mà quân của Sĩ Nghị đã chạy tan vỡ ra bốn phía, những kẻ chạy
trốn ở thôn tráng ngoại thành lại bị dân hoàng thành giết chết. Ngày thần vào
thành, lập tức cấm chỉ không được giết càn, hết thảy phải đưa đến đô thành,
cộng hơn 800 người, thần đã cấp cho lương ăn. Trộm nghĩ: nước thần tự đời Đinh,
Lê, Lý, Trần đến nay thời đại có đổi đời, không phải là một họ, họ nào có thể
làm phên che ở nước Nam được thì trồng cây nào vun xới cho cây ấy chỉ là rất
công rất nhân mà thôi. Thần cúi nghĩ rằng: Thể lòng Trời làm mệnh lệnh thuận về
lẽ tự nhiên mà thôi, xin tha cho thần về tội đối địch với Tôn Sĩ Nghị, thương
cho thần về lòng thành mấy phen gõ cửa tâu bày, cho thần làm vua nước An Nam,
để có thống quản. Thần kính cẩn sai sứ đến cửa khuyết xin làm phiên thần, sửa
lễ cống và đem cả nhân khẩu hiện còn nộpả lại, để tỏ lòng rất thành. Kể ra, lấy
đường đường Thiên triều so được thua với nước mọi rợ nhỏ mọn, hà tất phải đánh
cho đến cùng, làm nhàm việc vũ, để thỏa lòng tham tàn, chắc lòng Thánh đế không
nỡ thế. Lỡ ra quân đánh triền miên mãi không thôi, thế đến như vậy thật không
phải là lòng thần mong muốn, mà cũng không dám biết đến.
Trích Đại Nam Chính
Biên Liệt Truyện
Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn
Nhà Xuất Bản Thuận
Hóa, Huế, 2006
7. Về điều này nhà
NNC Nguyễn Duy Chính trong Đi tìm một
mảnh khuyết sử trong Khâm định Annam Kỷ lược cho rằng: Từ chiến sang hòa,
phương lược đấu tranh của nhà Tây Sơn chuyển sang một mặt trận mới. Công tác
ngoại giao vốn dĩ không phải là sở trường của Nguyễn Huệ, nay với sự giúp sức
của một số nho sĩ, quan lại cũ của Bắc Hà nên đã đạt được nhiều thành quả tốt
đẹp.
8. Khâm định Annnam
Kỷ lược, quyền XIII, người dịch Nguyễn Duy Chính.
9. Khâm định Annam kỷ
lược, đã dẫn.
10. Trong Bắc Hành tùng ký Lê Quýnh viết như sau:
Trong khi tôi đang tập hợp các đồng chí để đợi lệnh nhà vua khôi phục thì:
Tháng 5 năm Kỷ Dậu (1789) thấy biểu huynh Nguyễn Trình vâng mệnh Tổng đốc Quảng
Tây Phúc Khang An sai về đòi Lê Quýnh đến trước cửa quan để hỏi chuyện. Bấy giờ
bệnh Quýnh đã khỏi. Tháng 7, Quýnh đi Nam Quan đợi lệnh. Bản dịch của Hoàng
Xuân Hãn.
Khi đến Quảng Tây,
ông nghe nói Tây Sơn đã hàng lòng vẫn còn ảo vọng, ngợi khen nhà Thanh bất
chiến tự nhiên thành. Mãi sau này khi bị Phúc Khang An ép cạo đầu, thay áo mới
nội giận mắng Khang An như vậy.
11. Dẫn theo Nguyễn
Duy Chính: Lê Chiêu Thống đáng thương hay
đáng trách.
12. Dẫn theo Nguyễn
Duy Chính: Thanh Việt Nghị Hòa, phần IV – Đại lễ phong vương
13. Thanh sử cảo chép
lại Chiếu phong vương của Càn Long cho Quang Trung nguyên văn thế này:
朕惟王者遐覃伐罪因而舍服候封恪守事大所以畏天鑒誠於荒陬貰其旣 往沛恩膏於屬國嘉以維新賁茲寵命之頒勗以訓行之率惟安南地居炎徼開十三道 之封疆而黎氏臣事天朝修百餘年之職貢每趨王會舊附方與遭難以流離遂式微 而控愬方謂興師復國字小堪與圖存何期棄印委城積弱仍歸失守殆天心厭其薄德 致世祚訖於終淪爾阮光平起自西山界斯南服向匪君臣之分寖成婚媾之仇釁啟交 訌情殊負固抗顏行於倉卒雖無心而難俺前愆悔罪咎已前除願革面而自深痛艾表 箋籲請使先猶子以抒忱琛獻憬來躬與明年之祝嘏自非仰邀封爵榮藉龍光曷由下 蒞民氓妥茲鳩集况王者無分民詎在版章其土宇而生民有司牧是宜辑寧爾邦家爰 布寵綏俾憑鎮撫今封爾為安南國王錫之新印於戲有興有廢天子惟順天而行無貳 無虞國王咸舉國以聽王其懋將丹款肅矢冰競固以長其子孫勿使逼滋他悉心 以勤於夙夜罔令逸欲有邦益敬奉夫明威庶永承夫渥典欽哉毋替朕命.
14. Xem thêm Đại Việt Quốc thư, dịch giả Hoàng Văn
Hòe Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục (VNCH).
15. Nguyên văn tiếng
Anh từ Zhaoguang Ge: Costume, Ceremonial, and the East Asian Order: What the
Annamese King Wore When Congratulating the Emperor Qianlong in Jehol in1790:
“As the saying goes,
“courtesy calls for reciprocity.” The Annamese demonstrated enormous
seriousness. NguyễnQuangBình not only had promised to lead a mission of
hundreds including his son NguyễnQuangThùy and an accompanying official
NgôVănSở to Chengde, but also prepared extravagant gifts. Moreover, he asked
PhanHuyÍch, another accompanying official, to compose “Ten Melodies of lyrics
and music to honor His Majesty’s Longevity.” “Letters written in gold were sent
along with memorials to the throne” to repeatedly demonstrate loyalty to the
Great Qing. The king aspired to treat Emperor Qianlong as “the master and the
father” and expected that the emperor would fulfill his wishes. Emperor
Qianlong, who was extremely delighted, said, “Since the king treats me as his
father, how could I not treat him as my son?” - Người dịch Sông Hàn.
Đây là bài giảng được
Zhaoguang Ge trình bày tại Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc - John Fairbank, tại
Đại học Harvard ngày 19/04/2011).
16. Nguyên văn tiếng
Anh: Annamese king and his officials paid a visit to the Hall of Five Fortunes
and Five Generations. It was during this day that they requested of the Great
Qing emperorth at they be allowed to wear Manchu clothing to pay tribute, which
particularly pleased the emperor. The emperor thus wrote: “Approving the
request of NguyễnQuangBình , the Annamese king, to wear attire of the celestial
dynasty and granting him a poem.” The Annamese ruler and officials “followed
the edict by wearing hats and clothing of the celestial dynasty and
respectfully conveying their thoughts.” PhanHuyÍch and VõHuyTấn wrote poems
based on Emperor Qianlong’s rhymes to express their admiration. Zhaoguang Ge đã
dẫn. Người dịch Sông Hàn.
17. Tờ biểu tạ ân của
vua Quang Trung khi được Càn Long ban cho các đồ phục sắc Đại Việt Quốc Thư
trang 324 - 325. Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục VNCH, bản in 1973. Dịch Việt
Văn từ Hoàng Văn Hòe.
18. Mũ Bảo thạch đính
Tam nhãn hồng... là mũ của Thân Vương nhà Thanh. Bảo đới hoàng mã quải Áo, đai
và đệm trên mình ngựa.
19. Mũ của thân vương nhà Thanh. Mãng bào là loại áo thêu hình rồng 3, hoặc 4 móng (con rồng không đủ 5 móng thì gọi là con mãng, tức to hơn con rắn). Loại mãng bào mà vua Quang Trung được tặng là mãng bào có đính thêm san hô.
************
Trích từ trang Fb QuangPhan ngày 15-6 2023
Khi đọc xin các bạn hiểu cho tất cả câu chữ dấu chấm dấu phẩy là đúng nguyên như văn bản gốc đã đưa trên Fb QP