1/ Những nỗi đau của thời nay
--
Nghề nghiệp buộc tôi luôn luôn phải trở lại với văn chương quá khứ. Qua các trang sách đã đọc, tôi hiểu con người thời nào cũng có những nỗi đau khổ lớn lao. Song, nếu được so sánh, tôi vẫn cảm thấy so với họ, con người thời nay đau đớn gấp bội.
Đau đớn không phải do “trời xanh” hay “con tạo” gây ra, mà
đơn giản do cái xu thế chi phối cả xã hội lôi cuốn người ta, đau khổ do người
nọ gây ra cho người kia, hoặc suy đến cùng là do chính mỗi người tự chuốc lấy.
Cuộc sống trần trần trong ánh ngày đấy mà như trong cơn mê, và thỉnh thoảng
người ta tỉnh ra thì cũng lập tức biết rằng tất cả đã muộn, tình thế vô phương
cứu chữa.
Trong mục Trà dư tửu
hậu trên Thời báo kinh tế Sài Gòn số 10-2008, tôi đã kể về một cô giáo trẻ
chạy trốn khỏi nghề dạy học. Cô không đương nổi nỗi đau mà nhiều thầy giáo có
lương tâm bây giờ phải gánh chịu: không có được lớp học trò tử tế để có thể yêu
thương tin tưởng, cống hiến hết mình cho nghề.
Những nỗi đau tương tự như thế diễn ra hàng ngày đến mức
người ta đâm ra dạn dày không muốn nghĩ tới. Lớp người năm nay sáu mươi, bảy
mươi tuổi chúng tôi thỉnh thoảng lại có những buổi họp lớp.
Một kết luận khiến nhiều người sững sờ: kẻ thành công trong
đường đời (giàu hơn và có địa vị xã hội cao hơn) nhiều khi không phải là người
giỏi giang mà đơn giản chỉ là những kẻ liều lĩnh hơn, dám làm... láo hơn.
Trở thành công chức nhà nước, chúng tôi thèm được làm việc
trong những cơ quan mà người đứng đầu thạo việc hơn mình, để rồi khốn khổ thay,
đó là ao ước không mấy người đạt được. Nhưng thôi, những nỗi đau đó xem ra còn
có vẻ “sang trọng” quá. Có nhiều nỗi đau cụ thể hơn, đời thường hơn. Chẳng hạn
bạn hãy tìm đến một gia đình nào đó có đứa con bị nghiện hút.
Bây giờ cuộc mưu sinh quá lôi cuốn, đến mức nhiều người nhắm
mắt bỏ qua, con hư mặc kệ, hàng ngày nhẫn nại mở tủ cung cấp cho con tiền bạc
tiêu xài. Bản thân thì lấy sự chi tiêu tốn kém cho con làm cái cớ để bước sâu
thêm vào vòng tham nhũng hoặc buôn gian bán lận, cốt bòn rút được của cải của
thiên hạ và lấy đó làm điều hãnh diện.
Song, bên cạnh những người mê muội vẫn còn những người tỉnh
táo hơn và tấn bi kịch tinh thần của họ bắt đầu từ sự tỉnh táo đó.
Sau những cố gắng tuyệt vọng để cứu vớt đứa con hư và tìm
cách đưa nó về con đường chính đáng, nhiều gia đình rơi vào bất lực và tuyệt
vọng.
Đến nước ấy, người ta chỉ có cách từ con, rồi lo chạy chọt
để tống con vào trại cai nghiện và thầm mong mỏi một điều ngược đời: mong cho
đứa con rứt ruột của mình chết đi càng sớm càng tốt.
Vâng, đúng thế vậy!
Hãy hình dung cái cảnh những bậc cha mẹ mặt lạnh như tiền
đến đón đứa con mang đi mai táng, xem như thoát được một gánh nặng và một nỗi
nhục nhã. Chẳng phải đó là tình cảnh phi nhân văn nhân đạo, tức trái với tính
bản thiện của con người, những tình thế xưa nay chưa từng có mà chỉ ngày nay
mới có?
Hàng ngày báo chí loan tin bao nhiêu kiểu giết người mà tôi
không muốn kể ra ở đây vì thấy quá kinh dị. Chỉ nói một ca nhẹ hơn, một cháu bé
trong cơn điên thèm chơi game, bóp cổ bà già hàng xóm lấy tiền.
Tôi ngờ là trong số những người thân của cháu nhỏ này, một
lúc nào đó, trong đầu óc sẽ quẩn lên câu hỏi, con mình hay cháu mình có còn là
người nữa không. Nỗi đau của những người đó - khi mơ hồ dự đoán tương lai của
đứa trẻ - chắc chắn là một nỗi đau vô bờ.
Một người mẹ có hai con có mặt trong chiến tranh. Đứa lớn
không trở về, nhưng tấm bằng liệt sĩ mang lại cho bà sự kính trọng của họ hàng
và xóm giềng.
Đứa em thì ngược lại, trở về với một tâm hồn lạnh giá. Gã tự
dành cho mình cái quyền hư hỏng phá phách làm càn để bù lại bao nhiêu gian khổ
đã hủy hoại gã trong những năm tuổi trẻ. Không nghiện hút, chỉ cần rượu chè, cờ
bạc đề đóm thôi, gã cũng đã thành một hiện thân của bệ rạc và tha hóa.
Trong cơn buồn bã bất lực, có lúc bà mẹ chép miệng: “Thà nó
cứ chết đi như thằng anh, tôi nghĩ lại thấy đỡ vô phúc hơn là quay trở về hành
hạ tôi như thế này”!
Trong cái câu than thở bồng bột cất lên ấy, tôi nghe ra một
tiếng khóc thống thiết.
Hạnh phúc cuối cùng của con người xưa nay là tình yêu cuộc
sống, thấy rằng cuộc sống có ý nghĩa.
Chỉ nhờ có được điều hy vọng tự nhiên đó mà con người vượt
lên được bao nhiêu thách thức gặp phải trên đường đời.
Nay cái ý nghĩa lớn lao đó nhiều người không tìm thấy. Tương
lai trở nên vô vọng. Cuộc sống chỉ còn chuồi đi theo thói quen. Tự mình chứng
kiến sự hư hỏng của mình và những người thân của mình - hỏi có nỗi đau khổ nào
hơn, và về mặt này, những lớp người tiền bối làm sao có thể so sánh với nhiều
người chúng tôi hôm nay được!
***
2/Những nỗi sợ thông thường
--
Với một người già như tôi,
những ngày nghỉ kéo dài do lễ lạt thường lại gây ra sự lúng túng, chẳng biết
làm gì, chẳng biết đi đâu, mà quan trọng hơn là nếp sống thường ngày bị xâm
hại. Nhìn ra chung quanh, tôi thấy trừ một số có điều kiện và biết tổ chức, còn
với phần lớn những người còn nghèo – là đa số trong xã hội –, sau những ngày
nghỉ được sử dụng bừa bãi con người lại sống khó khăn hơn. Nhìn rộng ra, tôi
muốn nói tới những nỗi sợ nho nhỏ, kín đáo, ít ai để ý, nhưng nó là chuyện
hàng ngày chứ không chỉ trong những ngày nghỉ.
Ở mục Thời sự và suy nghĩ trong một số báo Tuổi Trẻ 1/2012 tôi đọc ra một lời nhắn nhủ “Đừng để lễ hội thành
nỗi sợ”. Mấy năm đã qua, vẫn cứ nhớ mãi.
Lâu nay báo chí thường chỉ
nói tới những nỗi sợ có liên quan đến bạo lực. Còn lễ hội ư, một sinh hoạt văn
hóa cơ mà, sao lại có nỗi sợ len vào đây? Nhưng chỉ cần nhớ lại mấy lần đi hội
thấy cảnh xô đẩy nhau cầu cúng, chen chúc mua bán nham nhở hưởng thụ, thấy nhà
báo nói cũng có lý.…
Báo Nông Thôn Ngày Nay một số cuối 2011 dẫn một ý kiến phát biểu trong
Quốc hội: “Đừng để người dân ra đường là sợ”. Chắc không chỉ muốn nói tới các
tai nạn giao thông đang rình rập, mà còn là chuyện cướp giật, chuyện móc túi.
Trên đà liên tưởng, tôi chợt
nhận ra trong đời sống còn vô số nỗi sợ thông thường khác, những nỗi sợ này có
sắc thái trung tính nên có vẻ như rất phổ biến.
Buổi sáng sợ đi làm vì không
dễ gì vượt qua đám đông chen chúc trên đường.
Đến sở sợ gặp không khí chơi
bời xả láng đến mức thấy mọi cố gắng bản thân thành vô nghĩa.
Có việc gặp cơ quan công
quyền, sợ mọi sự hạch sách vô lý. Hồi 19 tuổi, trong một lần đến làm giấy tờ để
chuyển hộ khẩu từ Hà Nội vào trường Đại học Sư phạm Vinh, tôi bị một người cậy
quyền cậy thế quát thét, ức đến mức phải ra ngoài khóc một hồi, rồi mới quay
vào nhẫn nhục chờ ông ta giải quyết tiếp.
Đang ngồi trong căn phòng
khách sạn chợt thấy tiếng loa phường mắc trên cột điện chõ ngay vào cửa sổ,
nghĩ có lẽ đến chết không cách gì thoát nổi những tiếng loa này.
Đi họp phụ huynh cho con chợt
phát hiện cô giáo là người kém cỏi lại ham thành tích, sợ không biết cô giáo –
và nền giáo dục này nói chung – còn dẫn con mình tới chỗ nào.
Một người bạn già của tôi bảo
rằng tuy ốm đau luôn đấy nhưng rất sợ phải đi khám bệnh.
Không chỉ vì sợ lối làm việc
quan liêu, mà đơn giản sợ lại chạm mặt mấy ông cùng cảnh về hưu, rỗi rãi tháng
nào cũng vào khám cốt lấy ít thuốc hạng bét, về bán đi thêm tiền tiêu vặt.
Sợ hãi len ngay cả vào trong
những chuyện tình cảm riêng tư. Đây là hai câu thơ của Nguyễn Duy, tả nỗi khổ
thời bao cấp nghèo đói:
Vợ chồng ngủ với nhau như vụng trộm
Không nỗi sợ nào bằng nỗi sợ có con
Lại có những nỗi sợ mà thực
ra không đáng sợ một chút nào cả, chỉ vì chúng ta “thần hồn nát thần tính” nên
sinh ra một chút hoảng loạn.
Đoạn cuối Chuyện kể năm hai ngàn của Bùi Ngọc Tấn có một chi tiết
lạ. Nhân vật chính ở tù ra đến xin đi làm. Ông cán bộ nhà máy biết rằng anh này
xưa nay vốn rất tốt, nên vui vẻ ký nhận ngay. Nhưng vừa ký xong thì một nỗi sợ
mơ hồ cứ bám riết lấy ông.
Ông cứ phải la lên thật to
rằng ta không làm điều gì xấu cả.
La không phải cho ai nghe mà
là để chính ông nghe.
Người mãn hạn tù trở về tức
là có mọi quyền công dân bình thường, ấy thế mà sao lớp người chúng tôi vẫn gờn
gợn thế nào mỗi khi tiếp xúc với họ. Tại sao lại có nỗi sợ kỳ cục vậy? Cái này
ai đã sống ở miền Bắc trước 1975 mới hiểu được.
Đó là chuyện miền Bắc. Còn
đây là chuyện miền Nam, đúng hơn là chuyện người Bắc khi vào Nam.
Một ông anh họ tôi trước 1975
là chuyên viên dân sự. Sau 1975, bị gọi đi cải tạo, vài tháng được về. Ông chỉ
kể thấy thương những người quản giáo, do hai ấn tượng chính.
Một là, mấy người này sống
quá đạm bạc, nhưng không biết cách thay đổi cuộc sống của mình. Có trong tay cả
một đội ngũ chuyên viên khoa học tài năng mà chẳng biết tổ chức lại, dùng họ
làm ra sản phẩm để cải thiện cuộc sống của mình.
Hai là, lúc nào cũng sợ mình
sai.
Mỗi khi lên lớp chính trị cho
các học viên, có người lắp ba lắp lắp, có người nói như đồng thuộc, nhưng họ đều
giống nhau ở chỗ cố nói cho đúng những gì cấp trên bảo phải nói, chỉ sợ buột
miệng ra những lời không đúng chính sách mà chung quanh phát hiện ra thì sẽ vạ
to.
Người có quyền mà lại sợ vì
không biết cái quyền đó có thực không và đâu là giới hạn của mình.