Phần chính của bài viết này được trình bày tại Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á - Đại học UC Berkeley ngày 03.2.2004 và UCLA ngày 04.2.2004. Tường thuật trực tiếp buổi nói chuyện tại UC Berkeley:
http://teles.berkeley.edu:8080/ramgen/2002/special_events/cseas/vnlit.rm
--
Nguồn
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=411&rb=0401
Ba mươi ba năm trước, khi tôi từ một thị trấn nhỏ gửi tác
phẩm đầu tay dự thi giải trẻ em sáng tác của báo Thiếu niên Tiền phong ở
Hà Nội, thế giới hoàn toàn dễ hiểu. Tôi không còn nhớ gì về tác phẩm ấy. Chắc
phải là chuyện một em bé lười học, bị điểm kém, khiến mẹ buồn phiền. Nhưng mẹ
lại viết thư khoe với bố đang ở chiến trường rằng em ngoan và học giỏi. Vô tình
xem được bức thư ấy, em xấu hổ, ân hận, quyết phấn đấu cho xứng đáng với hình
ảnh mình trong thư. Mọi phân mảnh của thế giới ấy đều lắp khít vào nhau và lắp
rất dễ. Mặt trái và mặt phải được đánh dấu rõ, không thể nhầm. Ở Quảng Trị quân
và dân ta đang thắng lớn, quân và dân ta thắng trong loa truyền thanh đúng hẹn
hơn mặt trời mọc mỗi ngày. Ở trường, mỗi điểm 10 là một dũng sĩ diệt Mĩ-Ngụy,
điểm 10 môn toán giá trị bằng xác một Mĩ, điểm 10 môn thủ công bằng xác một
Ngụy, máu giặc chảy thành sông và xương giặc chất thành núi trong sổ học bạ của
tôi. Ở huyện bên cạnh, thi sĩ thần đồng Trần Đăng Khoa hơn tôi hai tuổi đang
viết những câu thơ nức lòng dân tộc, một dân tộc từ trẻ đến già đều biết mình
là ai, mình sẽ mỉm cười chết cho điều gì nếu ngày mai phải chết. Ở thế giới xa
tít bên ngoài, một nhân loại tiến bộ mơ sáng mai ngủ dậy thành người Việt Nam.
Từ ấy đến nay, chỉ trong vòng một phần ba thế kỉ mà thế giới ấy đối với tôi đã
nhiều lần thay đổi trật tự, những thay đổi đủ để một bản tính dù bảo thủ thế
nào cũng buộc phải cải biến, một số phận dù khép kín thế nào cũng tất yếu là
sản phẩm và bộ phận của xã hội và thời đại mình. Những cái mốc trong hành trình
văn học của tôi cho đến nay không do tôi tự cắm, những lựa chọn của tôi không
hoàn toàn do tôi tự quyết định. Chúng ít nhiều đều là những can thiệp từ bên
ngoài. Ngay cả những thứ tưởng như hoàn toàn thuộc về mình, nung nấu bên trong
mình, riêng tư như thể chỉ do mình sắp đặt, cũng ít nhiều sinh ra từ tác động
của những hoàn cảnh đã thay đổi. Tôi có thể khẳng định rằng nếu thời đại không
diễn ra như thế, nếu số phận đứng im một chỗ, tôi đã và sẽ là tác giả của những
chuyện kể thành tâm về ai tốt hơn ai, cái xấu ắt bị tiêu diệt, nghị lực sẽ
chiến thắng, sai lầm có thể khắc phục; những lời nói dối nho nhỏ trong các câu
chuyện ấy bao giờ cũng xuất phát từ một tình thương bao la và bi kịch là những
nét vờn cho bức tranh đã đóng sẵn khung thêm sinh động. Như một trăm phần trăm
người Việt cùng thế hệ, tôi không sinh ra để được tắm đẫm trong hoài nghi, giễu
cợt và phê phán. Cả những yếu tố bỗng cấu tạo nên tác phẩm sau này của tôi ấy
cũng là quà của thời đại.
Với tất cả lòng tôn trọng sự tự do vô hạn của người nghệ sĩ, tôi cho rằng mỗi
cái cõi riêng của sáng tạo mà từng nhà văn Việt Nam đang chăm sóc -trong số ấy
có người tự hào rằng mình là một thiên thể chẳng nằm trong thiên hà nào - đều
gắn chặt với thời đại của nó. Tôi không thể nói gì về những cõi bên trong ấy.
Chỉ chủ nhân của chúng mới có thẩm quyền đó và không hiếm khi đánh mất thẩm
quyền. Hãy cho phép tôi nói về quan hệ của nhà văn với thời đại mình: tôi muốn
nói về nhà văn Việt Nam thời Hậu Đổi mới. Hay chính xác hơn: nhà văn viết tiếng
Việt thời Hậu Đổi mới. Sự điều chỉnh này mở rộng phạm vi để bao gồm cả những
nhà văn Việt Nam đang sống ở nước ngoài, đồng thời lại thu hẹp, không đề cập
đến những nhà văn gốc Việt đang viết bằng một ngôn ngữ khác. Tôi có lí do để
làm như vậy. Tiếng Việt là hiện thân, là chứng nhân và tác nhân của những biến
động xã hội và thời đại Việt Nam. Sử dụng nó là trải nghiệm, dù chỉ trong vô
thức, những biến động ấy.
Phong trào văn học Đổi mới được tính từ năm 1986, đạt tới cao trào vào những
năm 1988-1989, cho đến nay không có một kết thúc chính thức. Khái niệm
"Hậu Đổi mới" dùng ở đây cho khoảng thời gian từ nửa cuối thập niên
90 đến nay, không thật cụ thể từ năm, tháng nào; mong được cung cấp một chỉ dẫn
chính xác từ các nhà quan sát và nghiên cứu lịch sử giai đoạn này. Nếu có một
Đổi mới 2, đương nhiên khái niệm đang dùng phải được chuyển thành Hậu Đổi mới
1. Thay vì một định nghĩa, xin đi vào một số vấn đề của Hậu Đổi mới đối với văn
học mà theo tôi là đáng lưu ý.
*
Then chốt của cuộc Đổi mới trong văn học nghệ thuật là "cởi trói",
một hình ảnh nhanh chín để đạt mức biểu tượng nhưng chậm giải thích: 1) ai trói
và ai cởi? 2) cởi cái dây trói nào? Chúng ta không biết, bao nhiêu phần của sự
"bung ra" ấy thật sự bắt nguồn từ glasnost, bao nhiêu phần là
thành tích của một nhãn hiệu bắt buộc? Chúng ta không hỏi, giải phóng mình giờ
đây là quyền của mình, hay độc quyền của ai. Chúng ta bỗng thấy mình là con
cuốn chiếu, chân nào cũng bị buộc, buộc chặt nhất là bởi những dây lạt rất mềm.
Phải mất một thời gian người ta mới tìm đúng cái nút trói của mọi cái nút: trói
văn nghệ vào chính trị. Nếu kết quả của Đổi mới là chính trị chấp thuận về
nguyên tắc cho văn nghệ những khoảng tự do nhất định và bộ máy chính trị rút
bớt một số quyền hạn can thiệp vào guồng máy văn nghệ thì công việc của Hậu Đổi
mới là xác định cụ thể: đó là những khoảng tự do nào của văn nghệ, những phạm
vi can thiệp nào của chính quyền.
Đến giữa thập niên chín mươi, ranh giới sân chơi của văn học trong nước đã được
cắm cờ, những cây cờ vô hình nhưng hoàn toàn đủ hiệu lực với các nhà văn Việt
Nam, vốn đã tôi luyện trong nghệ thuật tinh mắt, thính tai và cử động khéo léo.
Đó là sân chơi rộng nhất mà văn giới Việt Nam có được so với mọi giai đoạn văn
học trước đó - với ngoại lệ cần đánh giá theo những tiêu chuẩn khác, là văn học
thời 30-45 và văn học miền Nam trước 75. Nội quy căn bản của nó có thể tóm gọn
trong mấy chữ: "Muốn làm gì thì làm, miễn đừng làm chính trị.". Không
thể khôn ngoan hơn: sự thoả thuận chung sống hoà bình này cho phép cả hai bên
tránh những xung đột như trong quá khứ mà chẳng bên nào muốn lặp lại. Về phía
các nhà văn, nó còn cho phép họ yên tâm thấy mình đang trọn vẹn phụng sự nghệ
thuật, là việc từng bị bỏ bễ, thậm chí bị cấm đoán suốt một thời gian dài [1] .
Hành vi tách văn nghệ khỏi chính trị tại Việt Nam có một tầm vóc được so, không
phải là quá phóng đại, với việc tách tôn giáo khỏi nhà nước.
Quả nhiên có nhiều việc không nhất thiết trực tiếp liên quan đến chính trị cần
phải làm trong giáo đường nghệ thuật: tiếp cận và thu hẹp khoảng cách với thế
giới, hình thành một avant-garde, phát hiện đề tài, tìm những hình thức nghệ
thuật mới, làm quen với con người cá nhân lạ lẫm của mình vừa thoát xác từ con
thú xã hội, đối thoại với thế hệ trẻ, nhận thức lại các bậc kinh điển, làm
phong phú sinh hoạt văn chương, khôi phục nếp tranh luận trí thức, đặt nền móng
chất lượng cho ngành xuất bản, phát triển nghiên cứu và giảng dạy văn học, hay
đơn giản là hưởng thụ thành quả của những nền văn chương may mắn hơn... Những
việc bình thường của mọi nền văn học trong hoàn cảnh bình thuờng, nhưng với
chúng ta là cả một chân trời tươi rói chưa bao giờ có điều kiện ngắm. Tưởng như
vài thế hệ liên tiếp dốc sức ra làm những việc như thế cũng chưa hết. Tưởng như
khối lượng công việc có thể hình dung ra và cái năng lượng của tự do vừa được
giải phóng đủ để gây một không khí "Đâu văn học cần, ta có. Đâu văn học
khó, có ta" [2] ,
một cuộc lên đường tiếp theo cuộc xuống đường của những năm Đổi
mới.
Nhưng điều đó không diễn ra, hoặc diễn ra ở một cấp độ dưới mức mong đợi rất
nhiều. Dường như mọi việc đều được tiến hành, song kết quả thật kì lạ. Hãy lấy
một ví dụ, hi vọng làm sáng tỏ điều chúng ta muốn lí giải.
Mấy chục năm chiến tranh, eo hẹp và trói buộc vẫn cho phép một bộ phận quan
trọng các tác phẩm văn học thế giới được dịch tương đối cẩn thận, truyền bá
rộng rãi và ảnh huởng lớn đến đời sống tinh thần của người Việt. Tôi đã không
trở thành nhà văn nếu ở cái thị trấn nhỏ ấy, giữa những năm chạy bom và ăn bí
ngô không có một thư viện. Nó bé lắm, chưa đầy một ngàn đầu sách, nằm ngay
trong trụ sở Ủy ban huyện, tôi phát hiện trong một lần sang giếng Ủy ban tắm
nhờ, bên ấy nước giếng xây sạch hơn nước giếng đất của nhân dân. Cô thủ thư
kiêm y tá, đầu bếp, trực điện thoại và quét dọn, nhưng cô cũng đọc như tôi, một
đứa trẻ không có đồ chơi, từ trên xuống dưới cả thư viện một lần, rồi từ dưới
lên trên thêm một lần, không biết bao nhiêu lần những Andersen, Shakespeare,
Thackeray, Pushkin, L. Tolstoy, Gogol, Sholokhov, Mayakovsky, Gorky, Balzac,
Hugo, Stendhal, Maupassant, Molière, Aragon, Romain Roland, L. Stevenson,
Cervantes, Heine qua bản dịch của Tế Hanh, Schiller qua bản dịch của Thế Lữ,
cũng như Ibsen, Pablo Neruda, Hemingway, Jack London và tất nhiên những tác giả
Trung Quốc kinh điển.
Tôi không có nhu cầu tô cho thành quả dịch thuật của thời kì ấy hồng hơn để
tăng phần kịch tính của sự thảm hại mà chúng ta đang có hiện tại. Bộ phận văn
học và văn hoá thế giới được truyền bá ở Việt Nam những năm phơi phới đi lên
chủ nghĩa xã hội, những năm chiến tranh hào hùng, và những năm hậu chiến ảm đạm
là bộ phận đã được lọc kĩ, được tách khỏi tổng thể, và được giới thiệu như thể
văn học và văn hoá thế giới chỉ có chừng ấy là xứng đáng đến với dân tộc Việt
Nam, đám rác rưởi vô bổ, độc hại còn lại cần tránh tiếp xúc hoặc nghiêm cấm.
Văn học Xô-viết đã mau chóng chiếm vị trí cố vấn nghệ thuật cao nhất, John Reed
toàn quyền đại diện cho văn học Mĩ, Louis Aragon cho văn học Pháp, Anna Seghers
cho văn học Đức... Bảng xếp hạng đó dĩ nhiên là một biếm hoạ khó gây cười về
văn học thế giới. Nó quy định một lăng kính nghệ thuật sơ lược và méo mó mà cho
đến nay tiếp tục là lăng kính nghệ thuật chủ đạo của nhiều người hơn ta tưởng.
Nhưng cũng phải nói rõ: dù thế nào, đó là nguồn thức ăn tinh thần không dở nhất
đối với công chúng văn học Việt. Mayakovsky, Gorky, Ehrenburg, Fadeyev... không
hề là những tác giả xoàng, sự có mặt của họ trong tiếng Việt phải được coi là
một ân huệ. Nhưng ân huệ lớn hơn cả lại đến từ tham vọng nổi tiếng của chủ
nghĩa cộng sản, tham vọng độc quyền giải phóng loài người khỏi mọi đau khổ,
nhất là loại đau khổ do các giai cấp phong kiến, tư bản, thực dân và đế quốc
chịu trách nhiệm. Thế là dù đứng ngoài dòng văn học cách mạng vô sản nhưng
Victor Hugo, L. Tolstoy, E. Hemingway... và đông đảo các nhà văn thế giới xuất
sắc vẫn được dịch, chừng nào họ chưa quay sang chống luôn cả sự đau khổ của
loài người do chủ nghĩa toàn trị và những thể chế độc tài gây nên, và chừng nào
đường lối sáng tạo của họ không mâu thuẫn nghiêm trọng với đường lối hiện thực
xã hội chủ nghĩa.
Song chưa đầy một thập niên hoà bình, cởi mở hơn và sung túc hơn của Hậu Đổi
mới lại đủ để nền dịch thuật Việt Nam lâm vào một khủng hoảng sâu sắc. Bằng một
loạt các bài viết và phát biểu gần đây, nhà văn Nguyên Ngọc đã báo động đỏ về
tình trạng này. Ông cho rằng "một nền dịch thuật nghiêm túc, những người
dịch thuật nghiêm túc đang bị đánh tơi tả và thua liểng xiểng trước cuộc tấn
công ồ ạt của thị trường dịch hoàn toàn theo quan điểm thương mại hung dữ mà
nhà nuớc thả rông ra cho tự do hoành hành". Ông kêu gọi "một kế hoạch
quốc gia có tính chiến lược về dịch thuật, và nhà nước phải nắm lấy công việc
chỉ huy, tổ chức công cuộc có tính chiến lược đó" [3]
Tôi ngưỡng mộ Nguyên Ngọc, tổng biên tập báo Văn nghệ nổi tiếng của thời
Đổi mới, tôi lại càng khâm phục nhiệt tình không hề suy giảm và nghị lực bền bỉ
đáng kinh ngạc của ông suốt những năm Hậu Đổi mới này. Chắc chắn ông có lí do
để đi đến kết luận và lời kêu gọi ấy. Nhưng cho phép tôi trình bày một quan
điểm khác: tôi không cho rằng thị trường thương mại ở Việt Nam là nguồn gốc của
bi kịch này, và lại càng ít hình dung nổi các nhà chức quyền Việt Nam hiện tại
trong vai chỉ huy trưởng của công trình kiến thiết tinh thần ấy.
Nếu quả thật được "tự do hoành hành" thì thị trường thương mại này đã
vồ lấy một tác phẩm như Lolita, đã nhẩm rất nhanh rằng mấy trăm ngàn độc
giả từng mua Những thiên đường mù cũng có thể là khách hàng của Gulag
Archipelago, và American Psycho sẽ bán chạy hơn Harry Potter, vì
nhóm độc giả quan trọng nhất của Harry Potter ở Việt Nam còn bận học 3 ca,
trong khi nhóm độc giả của American Psycho đang không biết giết thời
gian và sự buồn chán bằng cách nào. Tôi cũng tin rằng nếu được chấp hành nguyên
tắc của lợi nhuận thì một doanh nghiệp ngành xuất bản tại Việt Nam không chỉ
chọn Playboy bản tiếng Việt thay báo Phụ nữ Việt Nam mà còn chọn Cahier
du Cinema bản tiếng Việt thay tạp chí Điện ảnh Việt Nam. Còn vì sao các
tuyển tập Lê Duẩn và Trường Chinh vẫn tiếp tục được in với số lượng không thể
gọi là khiêm nhường, trong khi hầu hết các nhà tư tưởng thế giới - không chỉ
của phương Tây - lại bị "thua liểng xiểng"? Các tác gia thế giới kén
độc giả ư? Không, tôi không tin là Lê Duẩn và Trường Chinh dễ tiêu hoá hơn
Rousseau, giải trí hơn Sir Winston Churchill, và đối với những vấn đề của Việt
Nam hôm nay có lẽ họ còn vô bổ hơn Marcus Aurelius. Song chúng ta không phải lo
cho sự mạo hiểm tài chính của những nhà xuất bản chăm chỉ sản xuất các loại
sách tuyệt đối không ai đọc như vậy. Chúng sinh ra để tiêu ngân sách được phê
chuẩn, để áp đặt một nhu cầu giả hay duy trì hờ một nhu cầu đã tàn lụi. Thành
công của chúng ở Việt Nam hôm nay chẳng so được với kỉ lục chưa một tác phẩm
nào trên thế giới vượt qua của Mao tuyển trong Đại Cách mạng Văn hoá
Trung Quốc, nhưng ở đó quy luật thị trường chỉ có mặt để chầu rìa. Cuộc chơi
được thiết lập trên những nguyên tắc khác. Con thú lợi nhuận chưa hề được thả
rông cắn càn trên thị trường văn hoá và truyền thông Việt Nam. Nó được xích
bằng một sợi dây đủ dài để khuynh loát vương quốc của nó, song ngoài độ dài của
bán kính ấy là một vương quốc khác, quy mô hơn nhiều, giầu thâm niên hơn nhiều,
giầu quyền lực hơn nhiều và đã từng chứng tỏ là không kém phần dã thú, vương
quốc của nền chính trị hiện hành.
Nói cách khác, khoảng tự do theo phương châm "muốn làm gì thì làm, miễn
đừng làm chính trị" trong dịch thuật văn học tất yếu là tự do dịch Kim
Dung chứ không phải tự do dịch George Orwell [4] . So
với cảnh vừa chẳng có Orwell vừa chẳng có Kim Dung của mấy chục năm trước, có
thể coi đầu nậu sách trong ngành xuất bản hiện nay là những ân nhân của thời đại
mà công lao chỉ có thể sánh với những đầu sỏ buôn lậu đã và sẽ trang bị xe máy
cho đến người nông dân cuối cùng, bất chấp người đó có biết dùng phanh hay
không. Công cuộc xe máy hoá dân tộc này đem lại một số lượng tử vong cao hơn
hai cuộc chiến tranh cuối cùng gộp lại, chiến tranh biên giới Việt-Trung và
chiến tranh Cămpuchia. Công cuộc Kim Dung hoá [5] cũng
nghiền nát vô số người viết và người dịch văn học, trong đó tỉ lệ Kim-Dung-rởm
có lẽ cao hơn phản-Kim-Dung. Bối cảnh Việt Nam dường như được kiến tạo để ân
nhân và đao phủ hoà làm một, có công chỗ này ắt mắc tội với chỗ kia, công càng
cao thì tội càng trọng. Nhưng nếu phải bắc lên bàn cân của riêng mình, tôi không
thấy bên tội của thị trường thương mại tại Việt Nam nặng hơn bên công, và tổng
trọng lượng của nó không đủ để được làm nguồn cơn của khủng hoảng văn hóa hiện
tại.
Hãy trở lại với vai trò của nhà nước trong câu chuyện dịch thuật. Việc chấm dứt
bao cấp từ khâu dịch đến xuất bản và phát hành quả nhiên làm cỗ máy dịch thuật
đang đều đặn hoạt động ngưng lại. Song vấn đề không thật sự nằm ở chiếc van tài
chính bị khoá đột ngột. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân cho thấy có
những chiếc van khác, tuy nhỏ bé hơn, nhưng vì vậy mà không rót lênh láng vô
tội vạ, và nhiều chiếc chụm lại cũng nên một sự nghiệp. Nhưng tư nhân trong
lĩnh vực văn hoá và truyền thông cho đến nay không có cùng cơ hội như những
người chung vốn sản xuất giấy vệ sinh, bột giặt, nước rửa chén, dầu gội đầu,
dầu tắm, kem đánh răng và băng phụ nữ. Rõ ràng không phải vì nhu cầu giặt giũ,
rửa ráy, tắm gội, chùi và giữ sạch bộ phận kín của cả dân tộc cần cấp bách giải
quyết hơn, dù mật độ dày đặc không thể tin nổi của những quảng cáo về chúng và
sự bẩn, bụi của môi trường khiến tôi có cảm giác ấy suốt 4 tuần vừa qua khi về
thăm Việt Nam.
Theo tôi, điều đáng lưu ý không phải là việc nhà nước (hay nói đúng hơn: của
giới lãnh đạo quốc gia, một sự pha trộn không bóc tách được của Đảng và nhà
nước) đã thôi chỉ huy và tài trợ cho chiến lược dịch thuật, đã thôi làm đầu
tầu, mà ở chỗ nó vừa đi vắng, vừa không cho phép ai khác thay mình làm việc đó.
Thời Hậu Đổi mới quả nhiên là thời của những khoảng trống kì lạ của những thẩm
quyền không có mặt, của những toa tầu không có đầu máy và người lái. Chúng tiếp
tục lăn bánh, thường thì uể oải, đi cho hết quán tính, ở những đoạn xuống dốc
có thể lao với tốc độ khiếp đảm, ở những đoạn lên dốc có thể đi giật lùi. Uy
tín cũ của lí tưởng, ý thức hệ và những giá trị tinh thần rường cột bỏ đi, song
khoảng trống để lại bị niêm phong, không nhường cho một uy tín mới vào chiếm
chỗ. Guồng máy chỉ đạo do Đảng và nhà nước nắm giữ đã đánh mất sự hữu hiệu,
nhưng một hệ thống điều hành khác chưa được phép kế ngôi. Tổ chức từ trên xuống
không còn tác dụng, song sự liên hiệp của các cá nhân từ dưới lên lại chưa hình
thành. Chưa bao giờ trong mấy chục năm qua, kể cả trong thời Đổi mới, các nhà
văn Việt Nam xuất phát từ sáng kiến và nguyện vọng cá nhân mà xây dựng được
những nhóm độc lập, có thể cạnh tranh với uy tín tinh thần của các tổ chức do
chính quyền chỉ định và bảo trợ. Tôi nói điều ấy không phải như một lời trách
cứ. Sự dũng cảm hay hèn nhát chẳng đóng vai trò gì ở đây. Lá đơn xin thành lập
một Hội Khiêu vũ Cổ điển có số phận hoàn toàn khác lá đơn xin thành lập một
nhóm văn nghệ độc lập, trừ phi các nhà văn nghệ đăng kí dưới cái tên Hội Sinh
vật Cảnh và tổ chức thả diều thay vì thả thơ.
Vậy là cuộc chung sống giữa văn nghệ và chính trị thời Hậu Đổi mới này chỉ hoà
bình chừng nào bộ máy thực thi quyền lực chính trị có mặt hay vắng mặt tùy theo
ý của riêng nó. Nó không có bổn phận phải báo cáo và xin phép ai ngoài chính
nó. Cho nên, một mặt không ai có thể phủ nhận một không khí chung đã khoan dung
và cởi mở hơn rất nhiều, ngay cả so với thời Đổi mới. Thậm chí hình phạt dành
cho những "sai phạm đối với đường lối văn hoá, văn nghệ" cũng giảm
nhẹ đáng kể so với những ví dụ tương đương trong quá khứ. Tùy đánh giá về mức
độ "có vấn đề" mà tác phẩm - trong phạm vi là tác phẩm văn nghệ chứ
không phải tác phẩm chính trị - bị đình chỉ phát hành, không được cấp giấy phép
xuất bản, bị phê phán mạnh trên báo chí, hay đơn giản là được lẳng lặng tồn
tại; tác giả của chúng hiển nhiên mất cơ hội được làm khách mời thường xuyên
trên truyền hình, mất tiêu chuẩn trở thành Tổng Biên tập báo Văn nghệ,
Tổng Thư kí Hội Nhà văn hay đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh; nhưng không bị treo
bút, tước quyền xuất ngoại, cản trở sinh hoạt riêng, bị đi cải tạo hay quản
thúc, giam cầm. Đó không hề là những thành tựu đương nhiên. Rõ ràng đời sống
văn học tại Việt Nam những năm này đã được bình thường hoá tới mức thế hệ viết
trẻ trưởng thành sau Đổi mới không thể hình dung nổi áp lực của sợ hãi từng
tháp tùng tất cả các thế hệ đồng nghiệp trước mình. Thời buổi quả nhiên đã thay
đổi, những người lạc quan cho rằng bánh xe lịch sử đã lăn đủ xa để không bao
giờ quay ngược về chỗ cũ nữa.
Nhưng mặt khác, chẳng những nền chính trị Việt Nam chưa bao giờ thôi quan niệm
rằng nền văn học Việt Nam có bổn phận phục tùng nó và chịu sự chỉ đạo của nó,
mà cũng không có bất kì một đảm bảo chính thức, một cơ sở luật pháp hay một quy
định trên văn bản hành chính nào cho sự khoan dung và cởi mở nêu trên. Cũng
không có những lời hứa danh dự và bảo trợ cá nhân nào đằng sau cánh gà, đơn
giản vì chẳng một cá nhân nào đủ niềm tin rằng ngày mai cái danh dự hôm nay của
mình vẫn còn nguyên vẹn. Phần lớn các biển cấm, đủ to và rõ để người mù cũng sờ
được, đã bị gỡ xuống. Không phải vì các vùng cấm đã trở thành an toàn, mà lí do
dễ thông cảm nhất có lẽ là: cho đỡ vất vả. Hôm nay treo biển này, ngày mai treo
biển khác, chẳng thà gỡ hết là xong chuyện. Một cách xử sự rất Việt Nam. Tai
nạn vì thế dễ xảy ra hơn. Tôi có thể hiểu những người thà trở lại cái thuở rạch
ròi, bên này là ta bên kia là địch, được bề trên cầm tay chỉ việc, phải viết
như thế này, không được viết như thế kia. Họ sẽ được yên tâm dồn năng lượng
sáng tạo của mình vào một việc rõ ràng. Văn học cách mạng Việt Nam đạt tới
những tầm vóc nhất định có lẽ cũng nhờ khối năng lượng không bị phân tán, tập
trung đậm đặc vào cùng một hướng như vậy. Thơ Chế Lan Viên giai đoạn tận tâm
dâng hiến cho cách mạng có thể mất những loé sáng kinh dị của thiên tài thuở Điêu
tàn, nhưng theo tôi mạnh mẽ, xuất sắc hơn thời gian đắn đo chiêm nghiệm
cuối đời. Tôi cũng luôn có cảm giác rằng, những tác phẩm sau này của Nguyễn
Tuân tẻ nhạt hơn thuở Vang bóng một thời không phải vì ông đi
theo, mà vì ông miễn cưỡng đi theo cách mạng; vừa theo, nhận những
ân sủng của nó, vừa cho mình cái đặc cách làm một kẻ khác. Dường như ông sẻ 6
phần tài hoa của mình cho cách mạng, 4 phần giữ lại làm vốn giắt lưng cho một
cơ hội khác, kết quả gộp lại không hề là một Nguyễn Tuân mười phân vẹn mười.
Trong bối cảnh ấy, ngay cả các tai nạn cũng tự khắc mang một tầm vóc. Hoặc là
hào quang của Tố Hữu, hoặc là bóng tối của Trần Dần, cả hai đều đủ cường độ
thuyết phục, và - tôi mong mình không bị hiểu sai - thậm chí bổ sung nhau như
những yếu tố kích thích sáng tạo.
Tất cả những quyến rũ ấy không còn tác dụng trong những năm Hậu Đổi mới. Uy tín
chính thống ra đi và rủ người anh em sinh đôi của nó, uy tín phản chính thống,
cùng ra đi một thể. Những tác phẩm bị đình chỉ phát hành vài năm gần đây: Chuyện
kể năm 2000, Đi tìm nhân vật, Thượng đế thì cười, Thời của những
tiên tri giả... theo tôi có một tầm quan trọng và chất lượng nghệ thuật cao
hơn hẳn phần lớn các sáng tác cấm thời Nhân văn-Giai phẩm, nhưng chúng
không trở thành huyền thoại như thế, không phát ra một sức hút đủ mạnh để đánh
thức ít nhất là lòng hiếu kì của một công chúng văn học từng háo hức nếm trái
cấm. Như đã nói, phần lớn các biển cấm đã bị gỡ xuống, mỗi người viết trước hết
hãy nướng tài trí và năng lượng vào việc tự hướng đạo thay vì được lãnh đạo, tự
lập bản đồ các vùng an toàn cho mình, tự định nghĩa thế nào là chính trị trong
cái phương châm "muốn làm gì thì làm, miễn đừng làm chính trị", tự
điều chỉnh áp lực có thể chịu được của tự do: Hậu Đổi mới là thời hoàng kim của
tự kiểm duyệt. Nếu mỗi người chỉ canh gác cái phạm vi hữu hạn của bản thân thì
dẫu sao cũng còn những No man's land, những vùng trắng để mạo hiểm.
Nhưng trước khi là một tác giả cá nhân, mỗi chúng ta luôn là một tập thể, ít
nhất gồm một viên chức trong guồng máy văn nghệ, một nhà báo trong guồng máy
truyền thông, một người bạn trong guồng máy giao lưu, một thành viên trong
guồng máy gia đình. Phạm vi kiểm duyệt của mỗi chúng ta trải ra vô tận. Chúng
ta canh gác mình, canh chừng nhau và canh chừng cho nhau. Và với mọi ngón nghề
của tự kiểm duyệt mà vẫn gặp tai nạn thì hãy chấp nhận bằng tinh thần Kafka: không
một cá nhân, một cơ quan, cấp, ngành, thẩm quyền nào biết rõ câu trả lời; không
có ai là kẻ thù, không thằng bạn nào là thằng bạn đểu, chẳng còn phe cấp tiến
và phái bảo thủ, tả khuynh và hữu khuynh đã trộn lẫn, các toạ độ hoà vào nhau,
tất cả đều được phép và không được phép, mọi tai nạn đều có thể và không thể
xảy ra. Gọi toàn bộ nền văn học Việt Nam những năm tháng này là một cõi bình an
vô sự và mở rộng cũng không sai, là một vùng bất trắc và khép kín cũng đúng.
Câu hỏi ưa thích của người nước ngoài: nhà văn Việt Nam có được phép tự do viết
những điều mình nghĩ không, được nhiều nhà văn trong nước khẳng định chân thành
rằng, hoàn toàn được phép, bây giờ ai muốn viết gì thì viết. Tôi cho rằng chẳng
phải bây giờ mà bao giờ cũng vậy, viết và nghĩ luôn trùng khít, tầm nghĩ luôn
quy định tầm viết, vì vậy có lẽ nên đặt lại câu hỏi ấy. Trước hết hãy hỏi rằng
các nhà văn Việt Nam có được tự do nghĩ hay không. Từ vài năm nay, bộ óc tự do
nhất tại Việt Nam không phải là bộ óc nhà văn nào. Mà là tờ An ninh Thế giới.
Vì sao tờ báo lá cải nhất trong diện lá cải, chính thống nhất trong diện chính
thống, mang phù hiệu "Công an Nhân dân Việt Nam", mang khẩu hiệu
"Vì an ninh Tổ Quốc", và mang biển "Cơ quan của Bộ Công an"
lại trở thành một trong những thế lực tinh thần hàng đầu, nếu không muốn nói là
số 1, như vậy? Cùng với nguyệt san Văn hoá Văn nghệ Công an và đặc biệt
với phụ san An ninh Thế giới Cuối tháng [6] dành
cho văn nghệ, đế chế Văn nghệ Công an của thời Hậu Đổi mới đã thay thế đế chế
Văn nghệ Quân đội của thời trước Đổi mới. Câu trả lời đã nằm sẵn trong cuộc đổi
ngôi này. Thời của Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Bảo Ninh, Dương Thu Hương,
Nguyễn Khải, Lê Lựu, Dương Huớng, Nguyễn Khắc Trường..., những người lính và sĩ
quan trong một đất nước mà lịch sử chủ yếu được viết bằng lịch sử chiến tranh,
các thành tựu quan trọng nhất là những thành tựu quân sự, mọi lựa chọn đều phải
rõ ràng như cái chết và sự sống, thời ấy đã qua. Chúng ta đang ở thời Hậu Đổi
mới. Tờ báo của ngành công an có thể cho những người viết ở Việt Nam một tự do
mà không cơ quan ngôn luận nào dám ban phát, đơn giản vì ngành chủ quản của nó
có thể quyết định sự co giãn của những giới hạn cho phép [7] ,
quyết định lúc nào và cái gì là phù hợp hay không phù hợp với chính thống. Họ
là người thổi còi. Thổi sai cũng không sao, vì chẳng có người thổi còi nào
khác. Sau một hồi dè bỉu, nghi kị, tẩy chay, đại đa số các nhà văn trong nước
đã dẹp cái quá khứ đầy những chuyện đau lòng giữa giới văn nghệ với cơ quan
được phân công kiểm soát văn nghệ sang một bên. Chẳng có lí do gì để từ chối
việc xuất hiện trên tờ báo có nhiều độc giả nhất toàn quốc [8] ,
được trả một mức nhuận bút có thể so với New York Times trong hoàn cảnh
Việt Nam [9] ,
được phát biểu những điều không nơi nào khác dám công bố, và trên hết là được
sự bảo trợ của quyền lực chính thống. Nếu không muốn tiếp tục là một nền văn
học của những tác giả ần dật, chuyên đi tìm những tảng đá chênh vênh giữa trời
xanh [10] mà
khắc tác phẩm dành cho tương lai, văn học Việt Nam phải tìm cách làm bạn với
báo chí và truyền thông. Người bạn lớn nhất hiện nay của nó là tờ An ninh
Thế giới, người cho phép nó lọt vào kẽ hở giữa hai bánh răng khổng lồ, một
bên là thương mại và văn hoá đại chúng, một bên là chính trị và văn hoá chính
thống. Chúng ta có thể lạc quan mà cho rằng có một kẽ hở còn hơn không có kẽ hở
nào. Chúng ta có thể bi quan mà phủ nhận vị thế làm một kẽ hở, với số phận hoàn
toàn phụ thuộc vào việc thương mại và chính trị sẽ xích chặt vào nhau đến mức
độ nào. Điều gì còn lại, khi hai bánh răng ấy ngoạm vào nhau, cài vào nhau
khăng khít?
Con cuốn chiếu của chúng ta đã cởi được khá nhiều chân. Bây giờ hình như nó
đang làm phép tính nổi tiếng của loài cuốn chiếu: chân nào trước, chân nào sau,
chân nào sau rốt. Tôi nói điều ấy cũng không phải như một lời trách, gửi đến
một tập thể văn học nào đó. Người ta có quyền hết lòng cống hiến cho nghệ thuật
trong sự nghiệp của cá nhân mình, có quyền nói to lên rằng: "Tôi chỉ làm
nghệ thuật, mọi chuyện khác tôi không can dự". Nhưng, nghệ thuật là can
dự. Bản thân tôi cũng không hiểu được ngay điều đó. Nhiều năm tôi đóng cửa, cho
rằng cự tuyệt là hình thức phản kháng hữu hiệu nhất. Tôi từ chối cả việc dịch,
cho rằng đó là việc của người khác. Người này chuyển đơn đặt hàng của tương lai
cho người khác, người cuối cùng thì ném nó qua cửa sổ, ngầm hi vọng có một nhà
nước, một chính quyền nào đó thường xuyên túc trực ngoài cửa sổ thư phòng tao
nhã của mình để nhặt tấm đơn ấy, đem về giải quyết. Có lẽ có một chính quyền
từng chăm chỉ trực sát bên cửa sổ của chúng ta thật, nhưng để làm những việc
rất khác. Bây giờ ở đó là một khoảng trống được niêm phong.
*
Cách đây ba tháng tôi lại có dịp về thăm cái thị trấn nhỏ, nơi tôi đã viết, gửi
đăng tác phẩm đầu tiên trong đời và nhận Giải Nhì của cuộc thi, phần thưởng văn
chương duy nhất của tôi cho đến nay ở Việt Nam. Cái giếng xây ở trụ sở Ủy ban
không còn, ban lãnh đạo địa phương đã dùng nước máy, nhân dân có lẽ không đến
đó xin tắm nhờ nước nóng từ vòi hoa sen. Cái thư viện nhỏ cũng không còn, chỉ
thấy một số tuyển tập (hình như Lê Duẩn, Trường Chinh...), báo Nhân dân,
báo Quân đội Nhân dân, báo Công an Nhân dân và báo An ninh Thế
giới trong phòng tiếp khách trang bị vô tuyến, đầu video, giàn karaoke,
tượng Hồ Chí Minh, biểu ngữ "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương Hồ Chủ tịch", rèm Thái hai tầng mầu hồng, bộ xa-lông giả da đệm mút,
ấm chén và phích nước Trung Quốc, và một chiếc bô nhựa mầu đỏ để đổ bã trà. Cả
huyện không có một hiệu sách, không nơi nào bán báo, không một ai truy cập Internet
nhưng có 3-4 điểm chơi điện tử luôn đông khách, toàn thanh thiếu niên. Trong
mọi nhà tôi ghé thăm đều không tìm đâu ra bóng dáng một ấn phẩm, trừ sách giáo
khoa trong cặp của bọn trẻ và lịch treo tường. Và trừ một nhà mà chủ nhân là
hội viên hội văn nghệ tỉnh, đồng chủ nhiệm câu lạc bộ thơ của địa phương. Những
dịp sinh hoạt câu lạc bộ, xe hơi từ tỉnh và Hà Nội đổ về như có đám, xe của đại
diện hội văn nghệ tỉnh, đại diện hội nhà văn Việt Nam, xe của những thứ trưởng,
viện trưởng, cục phó, những cán bộ thoát li quê ở địa phương nay đã nghỉ hưu.
Những người tận tâm nhất cho văn chương Việt Nam bây giờ là những người đã cầm
chắc sổ lương hưu, đã thoát áp lực của cả chính trị và thương mại. Những bài
thơ của dòng văn học hưu trí tôi được đọc hôm ấy quả nhiên quay lưng lại thị
trường do đầu nậu lũng đoạn, nhưng hiển nhiên để và chỉ đáp ứng nhu cầu văn
nghệ phong trào và quần chúng. Cũng không do chính trị đặt hàng, song chẳng đi
chệch khỏi đường lối văn nghệ chính thống lấy một nghịch vần.
Chuyến đó tôi đi cùng một nữ đồng nghiệp người Pháp. Chị ấy hỏi, làm một nhà
văn Việt Nam bây giờ có hạnh phúc không. Tôi đáp, dù sao thì cũng không bất
hạnh bằng làm một nhà văn Pháp, chưa có một Proust và một Céline nào án ngữ
trong văn học Việt Nam. Còn rất nhiều việc có thể làm.
Tháng 1.2004
[1]Một trong những hình thức phản kháng phổ biến và được ưa
chuộng nhất của văn học ngoài luồng trước Đổi mới là tập trung vào cái gọi là
nghệ thuật thuần túy. Phép tu từ và sự thể nghiệm, gọt rũa là một trong những
pháo đài oanh liệt của tinh thần đương đầu với chính thống.
[2]Khẩu
hiệu của Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam một thời là: "Đâu cần, thanh
niên có. Đâu khó, có thanh niên", sau này được nhại thành nhiều dị bản:
"Đâu tiền nhiều, ta có. Đâu tiền nhiều quá, có ta", hoặc "Đâu
việc cần, ta không có. Đâu việc khó, không có ta"...
[3]Nguyên
Ngọc, "Cần khôi phục lại một nền dịch thuật lành mạnh", tạp chí Tia
sáng số 21, Hà Nội tháng 11.2003, đăng lại trên eVăn: http://evan.vnexpress.net/Functions/WorkContent/?CatID=5&TypeID=8&WorkID=82&MaxSub=82
[4]Việc
dịch một văn bản như "What Is Democracy?" trên website của Đại sứ
quán Mĩ không tính vào dịch thuật văn học. Khi tin về bản án đầu tiên, 13 năm,
dành cho Phạm Hồng Sơn được Yahoo đăng trong phần tin thời sự nổi bật, tôi tình
cờ chứng kiến một forum của Đức sôi sục về việc này. Một người trong forum bình
luận rằng: ai ấu trĩ và dại dột tới mức đi tuyên truyền cho cái gọi là dân chủ
của chính phủ Mĩ, người đó đáng bị cách li khỏi cộng đồng, để cộng đồng bớt đi
một kẻ ngớ ngẩn. Phần lớn những người khác trong forum tuy đồng tình rằng bài
"What Is Democracy?" không đáng đọc, và lại càng không đáng để bất kì
ai phải hi sinh dù một ngày giam cầm, nhưng quyết liệt cho rằng sự giễu cợt kia
hoàn toàn không thích hợp với mức độ nghiêm trọng của việc đàn áp tự do tư
tưởng đang diễn ra tại Việt Nam. Cuối cùng, người có ý kiến giễu cợt ấy xin
lỗi.
[5]Đây
chỉ là một cách nói, không hàm ý miệt thị sự nghiệp của Kim Dung. Cá nhân tôi
cho rằng người viết tiếng Việt nên trải qua một số tác phẩm chính của Kim Dung
như Tiếu ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu, Cô gái Đồ Long...,
ít nhất là để hiểu nguồn gốc của vô số thành ngữ, hình ảnh, khái niệm...vốn từ
truyện Kim Dung mà đi vào tiếng Việt.
[6]An
ninh Thế giới ra số đầu tiên ngày 15.8.1996, lúc đầu là tập san chuyên đề 2
tuần một kì của tạp chí Văn hoá Văn nghệ Công an, sau chuyển thành báo
tuần ra vào ngày thứ tư; từ tháng 9.2000 có thêm số đặc biệt An ninh Thế
giới Cuối tháng. Từ tháng 1.2004, theo "yêu cầu của nhiệm vụ
mới", An ninh Thế giới hợp nhất với báo Công an Nhân dân và
trở thành ấn phẩm của báo Công an Nhân dân (www.anninhthegioi.com.vn)
[7]Tiếu
thuyết Thời của những tiên tri giả của Nguyễn Viện đã đi khắp các nhà
xuất bản, đều bị từ chối, cuối cùng được Nhà xuất bản Công an chấp nhận. Lệnh
đình chỉ phát hành sau đó cũng do ngành công an thực thi.
[8]An
ninh Thế giới cùng lúc được in ở 4 nhà in trong nước và 2 nhà in ngoài nước
(CHLB Nga và CH Séc), số lượng phát hành mỗi kì lớn nhất Việt Nam, ổn định ở
mức 550.000 bản (www.anninhthegioi.com.vn)
[9]An
ninh Thế giới là tờ báo Việt Nam duy nhất đủ kinh phí để gửi một phóng viên
sang Iraq, trực tiếp thông tin và bình luận vế cuộc chiến tranh vừa qua.
[10]Xin
xem những lời mở đầu của Hồng lâu mộng về sự tích này.