VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Vừa Hán hóa - vừa Việt hóa - trích từ "Tổng quan về lịch sử Việt Nam" của Lê Mạnh Hùng

 


Diễn biến của nhân tố Trung Hoa cổ trung đại trên đất Việt là một chủ đề tuy rải rác nhưng vẫn thường xuyên trở lại trong các tài liệu sử học ở trong nước cũng như hải ngoại.

Dưới đây là một đoạn trích từ bài viết của tác giả Lê Mạnh Hùng trong chương 2 "Tổng quan về lịch sử Việt Nam" cuả cuốn NHÌN LẠI SỬ VIỆT ( đầu đề VỪA HÁN HÓA - VỪA VIỆT HÓA ở trên là do VTN đặt )

Nguyên bản thì chúng tôi chưa được đọc chỉ biết là phần trích trên mạng đã khá dài ở đây tôi chỉ xin trích ra một phần đầu và xin đưa lại đường link ở đây để các bạn tự tìm hiểu

https://quocdandocban.blogspot.com/.../nhin-lai-su-viet...

 Trong phạm vi chưa đầy 3000 chữ đoạn trích ở đây đã có sự phân tích khá rạch ròi và có được những kết luận mà chúng tôi cho là có sức thuyết phục.

 

***

"Herodotus ở Halicarnassus đã viết lại dưới đây những tìm tòi của mình để giữ lại những chuyện của quá khứ, đế viết lên những thành quả đáng ngạc nhiên của chính chúng ta và của những dân tộc khác, và đặc biệt để chỉ cho thấy tại sao họ và chúng ta lại đi vào con đường chiến tranh. "

Đó là câu mở đầu cuốn Lịch sử cuộc chiến giữa đế quốc Ba tư và thế giới Hy Lạp của Herodotus, có thể nói là cuốn lịch sử đầu tiên của nhân loại. Câu này tóm lại một đặc tính căn bản của lịch sử, tức là ghi lại những chuyện xảy ra trong quá khứ

Nhưng cũng như Herodotus đã viết ở trên, ghi lại quá khứ không, không đủ. Lịch sử còn có nhiệm vụ giải thích. Giải thích tại sao mọi chuyện lại diễn ra như vậy, nhất là trong trường hợp lịch sử một dân tộc.

Không những chúng ta cần phải tìm hiểu những chuyện gì đã xảy ra cho dân tộc ta, mà ta còn phải tìm hiểu những chuyện xảy ra đó nó ảnh hưởng và đóng góp như thế nào vào sự hình thành của dân tộc.

Người sử gia tìm cách vẽ lại lịch sử vì vậy cần phải tính đến những thay đổi khả dĩ có thể làm chuyển chiều hướng lịch sử trong mỗi sự kiện lịch sử ghi lại mà nếu không có, có thể khiến lịch sử đi về một hướng khác. Đó là những "bước ngoặt lịch sử ' mà không lịch sử dân tộc nào không có.

--

Lịch sử Việt Nam cũng vậy. Dân tộc ta hiện nay khác hẳn với dân tộc ta cách đây trên hai ngàn năm. Trong quá trình tiến hoá của dân tộc Việt chúng ta đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn được đánh dấu bởi một bước ngoặt quan trọng mà nếu không xảy ra thì sẽ đưa dân tộc Việt Nam vào một con đường khác, làm diễn biến lịch sử của chúng ta khác hẳn đi.

Những bước ngoặt đó tuy không phải ngẫu nhiên mà có, song cũng không tất yếu phải xảy ra. Chúng là hậu quả vừa của những lực tác động lâu dài, vừa của một số những tình cờ lịch sử, độc nhất có thể không bao giờ xảy ra lần thứ hai.

Mỗi bước ngoặt này mở đầu cho một giai đoạn lịch sử mới mà những diễn tiến của nó lại là tiền đề cho một bước ngoặt kế tiếp, đưa lịch sử nước Việt sang một trạng thái khác. Vậy thì những bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam là những bước ngoặt nào?

 

 

Nhìn lại lịch sử Việt Nam suốt từ thời lập quốc đến nay, ta có thể thấy nước ta đã trải qua sáu bước ngoặt quan trọng.

Bước ngoặt thứ nhất xảy ra khi dân tộc Lạc bắt đầu tiếp xúc với sự bành trướng của Hán tộc từ phương Bắc xuống. Các tiếp xúc này có thể bắt đầu từ thời An Dương Vương nhưng chỉ trở nên chặt chẽ hơn bắt đầu từ khi nước Âu Lạc bị sáp nhập vào quốc gia Nam Việt của Triệu Đà.

Trong một thời gian dài kể từ khi An Dương Vương mất nước cho đến cuối nhà Tây Hán, một cuộc đấu tranh âm ỷ diễn ra để xem dân tộc Lạc có thể tồn tại như một dân tộc thuộc nền văn minh Đông Nam Á hay không.

Bước ngoặt lịch sử thứ hai xảy ra khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, Mã Viện bắt đầu việc Hán hóa toàn diện xã hội Lạc cũ. Giai đoạn này, kéo dài gần một nghìn năm từ đầu nhà Đông Hán cho đến cuối nhà Đường khi Ngô Quyền cuối cùng đánh bại quân Nam Hán dựng nền độc lập cho dân tộc Việt.

 

 

Trong khoảng gần một ngàn năm Bắc thuộc kể từ sau Mã Viện này, xã hội dân Lạc đã qua nhiều giai đoạn chuyển đổi để trở thành một xã hội khác, xã hội Việt hầu như khác hẳn với xã hội cũ.

 

Việc chuyển đổi này diễn ra qua nhiều thời kỳ, với mỗi thời kỳ đánh dấu bởi một số những bước ngoặt nhỏ.

Thời kỳ đầu tiên có thể gọi là thời kỳ Hán Lạc diễn ra ngay sau cuộc chinh phục của Mã Viện.

Trong thời kỳ này, tầng lớp quý tộc cũ của dân Lạc thời Hùng Vương hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn.

Một số bị giết. Một số bị lưu đầy sang Trung Quốc - Mã Viện đầy 300 gia đình quý tộc dân Lạc sang Trường Sa, Hồ Nam.

Một tầng lớp quý tộc mới xuất hiện bao gồm những quan lại và quân sĩ người Hán theo Mã Viện sang đất Lạc cùng với những tầng lớp quý tộc người Lạc cũ đầu hàng Hán.

--

Đầu tiên tầng lớp quý tộc này đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ cho đất Giao Chỉ tiếp tục nằm trong đế quốc Hán, nhưng dần dà họ bị Lạc hóa và có một nhận thức về sự khác biệt giữa xã hội mà họ sống với xã hội Hán mà họ để lại ở phương Bắc.

 

Giai đoạn này kết thúc với đỉnh cao quyền lực của nhóm này qua vai trò của Sĩ Nhiếp và gia đình họ Sĩ vào thời Tam Quốc. Nhóm này tìm cách tạo ra một sự tổng hợp giữa những giá trị Nam và Bắc, Đông Nam Á và Trung Quốc.

Nhưng việc tiêu diệt gia đình họ Sĩ dưới thời Ngô Tôn Quyền đã làm hỏng những cố gắng đó và mở đầu cho một thời kỳ mới, tạm gọi là thời kỳ Lạc Việt.

 

Xã hội tại Giao Châu dưới thời Tôn Quyền không còn là xã hội cũ nữa mà đã bị Hán hóa rất nhiều. Từ Lạc, xã hội này đã trở thành Việt

 

Những cố gắng cuối cùng của một số những quý tộc Lạc cũ tại những vùng xa ảnh hưởng của Trung Quốc như cuộc khởi nghĩa của bà Triệu đã thất bại.

 

 

Trong giai đoạn này xã hội, đặc biệt là tầng lớp quý tộc Giao Châu, bị dao động dưới hai khuynh hướng, khuynh hướng trung thành với đế quốc Hán và khuynh hướng muốn tách khỏi đế quốc Hán để tạo dựng nên một quốc gia riêng của mình.

 

 Các cuộc đấu tranh bên trong nội bộ giữa các giòng họ chung quanh việc trung thành hay không đối với đế chế đã kết thúc với cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và việc thành lập đất nước Vạn Xuân. Khuynh hướng độc lập đã chiến thắng và chỉ còn vấn đề thời gian trước khi vùng Giao Châu trở thành một nước độc lập tách rời ra khỏi đế quốc Trung Hoa.

--

Cũng trong giai đoạn này, một biến đổi lớn xuất hiện tại vùng đồng bằng sông Hồng.

Sau mấy trăm năm dưới sự kiểm soát của đế quốc Trung Hoa, những làng mạc tại vùng này đã bắt đầu bị ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa thống trị, mở đầu cho sự phân tách dân Lạc cổ thành ra hai tộc người khác nhau, Việt và Mường.

 

Sự phân chia này cuối cùng đã hoàn tất trong giai đoạn thuộc nhà Đường. Sự tham gia của Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bí đánh dấu sự đồng hóa hoàn toàn của những người Hán ngụ cư vào xã hội Lạc Việt.

 

 

Thời gian độc lập của Lý Bí và những người thừa kế ông như Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử kéo dài được 60 năm, một giai đoạn kéo dài hai thế hệ và đã để lại một dấu ấn sâu rộng vào trong lòng xã hội Việt. Chính vì vậy mà dù đã ba trăm năm thuộc Đường - một đế quốc có một nền văn minh vào hàng rực rỡ nhất của nhân loại - cũng không thể nào khiến cho dân Việt chấp nhận ở lại trong lòng đế chế nữa.

 

 

Trong giai đoạn này, giai đoạn Đường Việt, dân Việt hấp thụ rất nhiều từ nền văn minh Đường, ngay cả trong ngôn ngữ - việc tách rời tiếng Việt khỏi tiếng Mường bắt đầu từ giai đoạn này.

--

 

Chế độ cai trị thời Đường cởi mở hơn cho những người sống tại Giao Châu, có những người Việt đã thành đạt lớn tại triều đình Đường, như Khuông Công Phụ trở thành tể tướng thời Đường Đức Tông.

 

Nhưng những điều đó không đủ ngăn chặn những khát vọng độc lập của người Việt. Và khi nhà Đường suy yếu và sụp đổ, cơ hội độc lập đã đến.

Sau một thời gian dài tự trị dưới thời họ Khúc, đất Việt đã hoàn toàn được giải phóng và trở thành một quốc gia độc lập dưới Ngô Quyền.

 

 

Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đánh dấu một bước ngoặt thới quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Mặc dầu còn những liên hệ mật thiết với đế quốc Trung Hoa, nhưng vận mệnh đất Việt không còn gắn liền với vận mệnh đế quốc này nữa.

Người Việt đã có thể tự do vạch một con đường cho đất nước và dân tộc mình.

 

--

Sau nhiều thập niên loạn lạc vào cuối triều Đường, những hào tộc ở các địa phương đã tự thành lập những tiểu vùng dưới sự cai quản của mình và trở thành những lãnh chúa. Họ chịu sự quản chế phần nào của chính quyền trung ương nhưng hầu như độc lập trong vùng lãnh thổ của mình.

 

--

Chế độ phong kiến Đại Việt trong những năm đầu sau khi nhà nước Đại Việt mới được thành lập chịu những áp lực phân hóa địa phương rất mạnh.

Tàn dư của những tinh thần địa phương đó còn tồn tại mãi trong lịch sử cho đến ngày nay.

Sau khi Ngô Vương mất, lực ly tâm của cái tinh thần địa phương này đã tạo ra tình trạng Thập Nhị Sứ Quân.

 

 

Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn Thập Nhị Sứ Quân, kiến lập ra triều Đinh, nhưng vẫn không có thay đổi gì trong xã hội. Xã hội Đại Việt dưới các triều Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần vẫn là một xã hội phong kiến, phân chia rõ rệt thành các giai cấp trong đó giai cấp quý tộc là giai cấp thống trị.

Qúy tộc này là Hán đã VIỆT HÓA

--

Chính vì vậy khi chế độ phong kiến bắt đầu suy thoái, khi kinh tế điền trang chiếm quá nhiều các tài nguyên của nhà nước, thì một cuộc khủng hoảng xảy ra mà hầu như không có biện pháp giải quyết.

Cuộc khủng hoảng vào cuối triều Lý đã không được giải quyết tận gốc mà chỉ thay thế một tầng lớp quý tộc cũ của triều Lý bằng một tầng lớp quý tộc mới của triều Trần.

--

Những chính sách mà triều đình nhà Trần đưa ra trong những năm đầu, hạn chế bớt điền trang của các quý tộc, khuyến khích nông nghiệp đã tạo được một số những ổn định trong đời sống xã hội, nhưng ba cuộc chiến tranh chống nhà Nguyên liên tiếp trong hai mươi năm đã làm đất nước kiệt quệ. Việc phát triển thái ấp điền trang vào cuối triều Trần cũng có tác động như vào cuối triều Lý.

 

Nó làm cho chính quyền trung ương càng ngày càng không có đủ nhân lực cũng như tài lực để đối phó với những khó khăn thời thế tạo ra. Các cải tổ của cha con Hồ Quý Ly nhằm củng cố chính quyền trung ương, hạn chế điền trang, hạn chế nô tỳ chỉ là những biện pháp nửa vời không có tác dụng bao nhiêu. Và đất nước lại một lần nữa rơi vào tay đế quốc Trung Hoa khi nhà Minh dưới triều Vĩnh Lạc trở nên cường thịnh muốn phát triển sức mạnh của họ ra ngoài biên giới truyền thống của đế chế.

 

Hai mươi năm cai trị của nhà Minh đã đẩy xã hội Đại Việt đi vào một bước ngoặt mới.

Trong cố gắng đồng hóa dân Đại Việt, nhà Minh đã mang toàn bộ thể chế xã hội tại Trung Quốc áp dụng vào Đại Việt.

Xã hội phong kiến cũ dưới thời LýTrần có thể coi như toàn bộ bị xóa bỏ. Một xã hội mới được tạo dựng lên, trong đó giai cấp quý tộc cũ không còn quyền hành nữa.

Những cố gắng "Nho hóa" của triều Minh đã được triều Lê sau đó tiếp tục, nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Các tầng lớp quý tộc thời Lê, những vương công đại thần nay không còn có điền trang thái ấp nữa. Họ cũng không có quyền có nô tỳ, có quân đội riêng. Quyền lực tập trung vào trong tay chính quyền trung ương.

Xã hội dưới triều Hậu Lê được tổ chức rập khuôn như xã hội Trung Quốc; thành phần sĩ phu được coi trọng trong khi công và thương nghiệp bị coi rẻ.

====

Bài viết còn một phần dài nữa, các bạn nào cần xin đọc tiếp – chú thích của tác giả LMH

 

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn