Nguyên là bài
TS Nguyễn Vân Nam: XIN NÓI THẲNG, KHÔNG CÓ BẢN SẮC DÂN TỘC VN “HIỆN ĐẠI”.
-2008 –
Về TS NGUYỄN VÂN NAM xin xem một bài trả lời phỏng vấn khác của
ông trên blog này 10/9/2021
Bài này nói về nhiều việc khác, và cái ý KHÔNG CÓ BẢN SẮC DÂN TỘC
VN HIỆN ĐẠI chỉ được tác giả nhắc thoảng qua nhưng theo tôi quả thật đó đã là một
ý tưởng tuyệt đối chính xác
******
PLO-Khoảng
cách giàu nghèo đang ngày càng rộng ra và người nghèo đang có nguy cơ bị đẩy ra
ngoài lề của công cuộc toàn cầu hóa...Cái mà chúng ta gọi là bản sắc dân tộc VN
hiện đại hôm nay, theo tôi khác với bản sắc dân tộc truyền thống. Hay nói thẳng
thắn là KHÔNG CÓ BẢN SẮC DÂN TỘC VN HIỆN ĐẠI...
·
*
Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu từ một “phỏng vấn ngược”:
“Cô định hỏi tôi vấn đề gì?”. Trả lời: “Không khuôn hẹp chủ đề, nhưng cũng
không đi ra ngoài những gì ông đã theo đuổi, đi Đông về Tây và… “toàn cầu hóa”
nó!
DÙ TOÀN
CẦU HÓA,
TÔI VẪN
LẤY VỢ VIỆT
. Thưa tiến sĩ, tại sao một người thành danh, được trọng vọng ở nước ngoài,
lương tháng 10 ngàn Euro, viết sách theo đơn đặt hàng của Liên minh Châu Âu,
chọn VN để sống và làm việc sau bao năm xuôi ngược xứ người?
- Rất ngắn gọn: Tôi về VN vì gia đình tôi ở Tây Âu tan vỡ.
Nếu sống trong không gian cũ, những kỷ niệm sẽ khiến tôi đau khổ. Và thay vì
chọn bất kỳ một đất nước nào khác, đương nhiên tôi về đây, bởi tôi là người
Việt.
---
. Xin lỗi vì tò mò, ông đã xây dựng gia đình mới?
- Ở nước ngoài, cũng có người hợp với tôi. Nhưng sự hòa hợp
rất khó toàn bích, nhất là về mặt tâm hồn. Tâm hồn con người được xây dựng trên
nền tảng văn hóa, cách hiểu, cách nhìn, cách thưởng thức văn hóa… Sự khác nhau
giữa nền tảng văn hóa, đặc biệt là sự tinh tế trong ngôn ngữ, khiến hai con
người thuộc hai nền văn hóa khác nhau khó có cơ hội hòa hợp về mặt tâm hồn. Vì
vậy, nếu tôi có xây dựng tiếp gia đình, chỉ có thể là với một người Việt.
---
. Có nhất thiết phải “quy định” cho mình như thế không, thưa tiến sĩ, nhất
là trong thời của toàn cầu hóa?
- Chúng ta đang ở trong lộ trình toàn cầu hóa, chứ không hẳn
đã hoàn toàn toàn cầu hóa. Hội nhập trong toàn cầu hóa là một quá trình, các
dân tộc thâm nhập lẫn nhau, đan xen nhau để hình thành nên một hệ giá trị văn
hóa chung. Lộ trình hình thành giá trị văn hóa đó không ai nói trước được phải
mất bao nhiêu năm. Con người khó khước từ quá trình hình thành giá trị văn hóa
chung của loài người. Tìm được tiếng nói chung hay không cũng phụ thuộc vào lộ
trình đó. Nhưng trở ngại còn rất nhiều. Ví dụ, rất cần thiết để ai cũng nhận
thức ra quyền sống và được bình đẳng là của chính mình, không phải do một ai ban
cho, nhưng đâu phải dân tộc nào cũng hiểu ngay đó là điều đương nhiên.
---
MUỐN CẢI
TỔ GIÁO DỤC,
PHẢI THAY
ĐỔI HOÀN TOÀN QUAN NIỆM
. Và như có lần ông nói, một trong
những quyền tối quan trọng và cần được xem như giá trị chung của toàn cầu là “quyền được có cơ hội
bước vào đời một cách bình đẳng như nhau của con người”…
. Đúng vậy. Nó liên quan đến giáo dục. Bao giờ giáo dục vẫn
được tiến hành trên quan niệm để công dân phục vụ nhà nước, phục vụ dân tộc,
thì lúc đó, quyền tối quan trọng như cô vừa đề cập, chắc chắn vẫn không được
thực thi.
---
. Một cách cụ thể hơn, ông có thể nói về cải tổ giáo dục ở VN?
- Phải xuất phát từ quan niệm giáo dục là trang bị cho con
người tri thức, để họ bước vào đời một cách bình đẳng và vì vậy có cơ hội như
nhau khi tạo dựng cuộc sống riêng. Cung cấp tri thức chính là nhiệm vụ hiến
định chứ không phải sự ban ơn của Nhà nước thông qua giáo dục. Quan niệm như
vậy mới có thể nói đến việc thay đổi phương pháp giáo dục, cải cách giáo dục.
---
. Với thực tế giáo dục ở VN hiện nay, việc thay đổi một quan niệm đòi hỏi
những yêu cầu gì, và liệu có khả thi?
- Rất khó. Hầu như không khả thi. Cho nên, như tôi từng nói,
việc đó dẫn đến hậu quả nhỡn tiền là nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu đã và
đang chuyển dịch đến những nơi mà họ cho là ở đó họ được tôn trọng, và điều
kiện sống, đặc biệt là về giáo dục và an sinh xã hội, thích hợp với họ và con
cháu họ. Những nơi mà họ chuyển dịch đến có cả các nước trong vùng Đông Nam Á,
hiện đang thu hút nhân tài bằng nhiều chính sách ưu đãi. Chúng ta cứ hô hào cải
cách giáo dục, còn người tài thì đang tiếp tục rời bỏ VN.
---
. Vẫn có nhân tài người Việt được đào tạo ở nước ngoài trở về VN. Có thể họ
về vì yêu nước hoặc vì một lí do nào khác, như ông là một ví dụ?
- Ở nước ngoài, tôi vẫn yêu tổ quốc của mình. Tôi luôn đặt
lên hàng đầu yêu cầu về quyền của bản thân. Không thể lấy trường hợp của tôi để
ví dụ cho những người khác. Nước Mỹ thì không phù hợp với người trung tuổi như
tôi. Tây Âu trong tôi lại đã là quá khứ…
---
. Hiện nay, Nhà nước ta cũng đã có rất nhiều chính sách thu hút và đãi ngộ
nhân tài. Kiều bào đã có thể mua nhà ở VN, và sắp tới, có thể người Việt sẽ
được mang hai quốc tịch. Nhiều chính sách đãi ngộ trong giáo dục cũng đã được
đề ra…
- Dù có đãi ngộ đến mấy, điều kiện ở ta vẫn không bằng các
nước khác được. Hơn nữa, với trí thức, đâu chỉ đơn thuần là vấn đề tiền bạc hay
vật chất. Họ cần nhiều hơn những thứ đó. Họ cần tôn trọng quyền tự do sáng tạo,
tự do chính kiến. Và quan trọng nhất là chính kiến của họ được đón nhận, được
tạo điều kiện để biến thành hiện thực. Họ cần môi trường để di dưỡng và phát
triển đời sống tinh thần.
BẢN SẮC MÀ
TA ĐỀ CẬP
MỚI LÀ
BIỂU HIỆN BÊN NGOÀI
Những giá
trị của bản sắc dân tộc, thưa tiến sĩ, có thể gọi tên?
- Bản sắc dân tộc thì ai cũng định nghĩa được, nhưng gọi tên
những biểu hiện của nó không dễ. Cái mà chúng ta gọi là bản sắc dân tộc VN hiện
đại hôm nay, theo tôi khác với bản sắc dân tộc truyền thống. Hay nói thẳng thắn
là không có bản sắc dân tộc VN hiện đại. Trong khi đó, những biểu hiện không
đáng tự hào của nó lại đang trùm lấp những giá trị đích thực. Hội nhập mà không
giữ được bản sắc, sẽ không thể hội nhập nổi.
---
. Những giá trị mà ông gọi là truyền thống và đích thực, biểu hiện của nó
là gì? Và chúng ta sẽ gìn giữ nó ra sao, đặt trong việc cải tổ giáo dục như ông
tâm niệm?
- Tôi lấy một ví dụ, ở Mỹ, có thể thấy thanh niên Việt kiều
ăn mặc hở hang, đi đứng hiphop, nhưng khi vào rạp xem phim, họ xếp hàng, về nhà
họ khoanh tay thưa ba, chào má… Ở VN bây giờ các biểu hiện văn hóa như vậy, tôi
chưa thấy. Chẳng hạn, tôn sư trọng đạo là một truyền thống, nhưng thực tế điều
đó biểu hiện như thế nào, là một chuyện khác. Áo dài, khăn đóng, quan họ,
chèo…, theo tôi không phải là giá trị truyền thống, nó chỉ là biểu hiện bên
ngoài của những giá trị truyền thống. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải phân biệt
được đâu mới là giá trị đích thực.
---
. Xưa nay, chúng ta vẫn tự hào người Việt nhân ái, trọng tình, trọng nghĩa…
- Nồng hậu, nhân ái, khoan hòa… vốn được xem là đặc tính của
người Việt. Trong tốc độ phát triển của toàn cầu, khả năng đánh mất những điều
đó đang là một sự thật. Khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng rộng ra và người
nghèo đang có nguy cơ bị đẩy ra ngoài lề của công cuộc toàn cầu hóa. Vậy thì sự
bình đẳng, khoan hòa, nhân ái… những đặc tính ấy có tồn tại thật không và được
không?
Có rất nhiều cách để cải tổ giáo dục, nhưng có những cách
người ta không dám làm. Có thể có những cách mà người ta không biết. Nhưng
không phải là không có cách. Lịch sử và kinh nghiệm thực tiến của nhiều nước đã
chứng minh VN không phải là nước duy nhất có nhu cầu cải tổ hệ thống giáo dục
và nhiều lĩnh vực khác như hiện tại.
NÊN HỌC
TẬP NỀN GIÁO DỤC TÂY ÂU
- Chọn mô hình nước nào để học tập là rất khó, kết hợp những
ưu điểm trong mỗi mô hình của mỗi nước còn khó hơn. Thực tế thì mỗi nước chỉ có
ưu điểm ở một vài lĩnh vực. Ta phải biết chọn ưu điểm của lĩnh vực này thuộc về
nước nào, kết hợp nó lại. Bản lĩnh của Nhà nước trong thời đại toàn cầu hóa thể
hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp đó. Ví dụ, ở lĩnh vực luật, nếu học tập
Luật Sở hữu trí tuệ của Trung Quốc hay Indonesia, coi như… thua. (Đây là hai
nước có tỷ lệ vi phạm sở hữu trí tuệ lớn nhất thế giới – PV).
---
. Xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế, hợp tác giáo dục Việt - Mỹ… là
những giải pháp đang được thảo luận nhiều nhất và có khả năng sẽ trở thành khả
thi nhất. Ông có ý kiến thế nào về vấn đề này?
- Hợp tác giáo dục với Mỹ, thoạt nghe thì tốt, về lâu dài,
lại thấy chưa ổn. Học tập nước Mỹ về giáo dục, chúng ta sẽ học tập gì? Gửi sinh
viên trao đổi giữa hai nước hay là xây dựng mô hình đại học như nước Mỹ? Lấy
kinh nghiệm giáo dục của Mỹ để chữa cháy cho các vấn đề giáo dục VN, liệu có
thể là giải pháp cho cải cách giáo dục hay không? Còn nếu học tập phương pháp
và quan điểm của hệ thống giáo dục Mỹ, tôi cho là còn kém khả thi hơn nữa. Xã
hội Mỹ hoàn toàn khác xã hội VN. Tôi nghĩ là nên học tập Tây Âu, nơi một xã hội
không tự do theo kiểu Mỹ và đã có hệ thống giáo dục mang tính xã hội hàng trăm
năm.
---
. Xã hội Tây Âu cũng hoàn toàn khác với xã hội VN vậy?
- Không khác quá lớn so với mục tiêu xây dựng xã hội mà lãnh
đạo nước ta đề ra. Tây Âu xây dựng xã hội trên nguyên tắc xã hội dân chủ. Về cơ
bản, những nguyên tắc này cũng là nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Thực ra, học
tập kinh nghiệm giáo dục của đất nước nào cũng vẫn phải dựa trên những nguyên
tắc căn bản. Những nguyên tắc mà hệ thống giáo dục Đức đã phổ quát mà nước Mỹ
ngày nay vẫn còn học tập là một ví dụ. Thay đổi quan niệm giáo dục như tôi đã
nói là một trong những nguyên tắc đó.
---
. Hiện ông có còn
tiếp tục các công trình với đề tài toàn cầu hóa?
- Tôi về nước, nên không còn ai… đặt hàng. Nhưng ở thời điểm
đó (2002), cuốn sách “Toàn cầu hoá và sự tồn vong của nhà nước” của tôi được
đánh giá là đã phân tích toàn diện về toàn cầu hóa, chứ không chỉ chuyên biệt
một khía cạnh, hay một lĩnh vực như ngoại giao, kinh tế, v.v… Bây giờ tôi ra
nước ngoài chỉ để thực hiện công việc của một luật sư, không còn giảng dạy ở
Đức nữa. Nhân đây nói thêm, ở Đức, ba tháng không đứng lớp giảng dạy thì hàm
giáo sư không còn nữa, không như ở ta…
. Xin cảm ơn ông về buổi trò chuyện cởi mở…
Sinh năm
1956 ở Cần Thơ, TS Nguyễn Vân Nam tốt nghiệp ngành hóa Đại học Tổng hợp
TPHCM, có bằng cử nhân triết học và kinh tế ở Đức, thạc sĩ về lý thuyết kinh
tế vĩ mô, thạc sĩ về luật sở hữu trí tuệ và cạnh tranh, tiến sĩ về luật hành
chính công, tiến sĩ khoa học về luật tổ chức nhà nước và công pháp quốc tế.
Được phong giáo sư tại Đức năm 2002. Tác phẩm
được Ủy ban Liên minh Châu Âu đặt hàng mang tên “Toàn cầu hóa và sự tồn vong
của nhà nước”, xuất bản ở Đức 2002. |
Lê Mỹ (Tạp chí Người Đô Thị)