VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Con người và tư tưởng thời bao cấp - Phần I

     

                                 

Nhân cuộc trưng bày về cuộc sống  Hà Nội  1975-86  tại Bảo tàng dân tộc học. Cuộc trưng bày này nằm trong chương trình tổng kết 20 năm đổi mới do UNDP và các quỹ khác như quỹ Ford, quỹ Sida tài trợ. Mở cửa từ tháng sáu tới hết năm 2006.

                                                                                                 

           Phần I - BỨC TRANH THỰC TẾ

                                                                                     

 Một cách làm sử

   Mặt nghệt ra  như mất sổ gạo. Một yêu anh có  may ô -- Hai yêu anh có cá khô để dành -- Ba yêu rửa mặt bằng khăn--- Bốn yêu anh có cái quần đùi hoa. Những câu ca dao tục ngữ ấy được dịch hẳn ra tiếng Anh rồi được kẻ nắn nót cẩn thận trên những bức tường lớn, dưới đó là mấy gian trưng bày các hiện vật theo một cách thức mà trong điều kiện ở Hà Nội này phải gọi là “hoành tráng”. Đó là một căn hộ thu nhỏ với những vật dụng phổ biến một thời, kể cả cái hố xí được ngăn lại để nuôi lợn. Đó là một cửa hàng gạo có kèm theo thông báo tháng này bán gạo thế nào. Rồi một cửa hàng bách hóa với biển hiệu rỉ nát và những bao thuốc cũ mèm, tưởng như sắp mốc đến nơi.      

     Bộ sưu tập Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp đã trình diện như thế tại bảo tàng có uy tín số một hiện nay, Bảo tàng dân tộc học.

      Một định hướng lớn của bộ môn lịch sử - văn hóa thời hiện đại là đi vào những chuyện có vẻ không có gì đặc biệt, nói theo chữ của nhà nghiên cứu F. Braudel, “những cấu trúc của sinh hoạt đời thường“.

    

 

 Một lần tôi đọc tờ báo chuyên về điểm sách của Nga, được biết bên Moskva họ cho dịch cả những cuốn kể chuyện nước Đức thời Hitler, người dân thường đọc sách gì, xem phim gì, đi làm bằng phương tiện gì, học sinh học sử ở trường ra sao, mơ ước về tương lai ra sao. Còn bản thân người Nga cũng làm những cuốn tương tự, trình bày riêng về từng giai đoạn như các  thập kỷ sáu mươi, bảy mươi thế kỷ XX.

    Mà chẳng phải đến thế kỷ XX người ta mới làm vậy. Trung quốc, ngoài các bộ chính sử kinh điển, lại sớm có từ lịch sử ăn mày, lịch sử lưu manh, tới lịch sử trò chơi, lịch sử tuyển chọn người đẹp tiến cung (bản tiếng Việt mấy cuốn này đều đã in ra từ mấy năm trước). 

    Còn ở mình thì sao? Cách hiểu về sử quá cổ lỗ. Lịch sử thường chỉ dành riêng cho những chuyện quen gọi là thiêng liêng, và quá khứ thì cứ bị quấn vào hiện tại, để rồi người viết lúng túng như gà mắc tóc, làm khoa học cũng cũng vật vờ mà làm chính trị cũng nửa vời kiểu ăn theo, chẳng đâu vào đâu.

    

 

     Giở lại cuốn Từ điển tiếng Việt của Văn Tân do NXB Khoa học xã hội cho in năm 1977, thấy mặc dù đã nói tới hiện tượng móc ngoặc đến những người chuyên nghề phe phẩy, song hai chữ bao cấp vẫn chưa có mặt. Người ta cũng có thể quan sát thấy tình trạng tương tự ở các từ điển  từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài ( chẳng hạn từ điển Việt Hán) cùng xuất hiện trong thời gian trên. Mãi đến từ  điển Hoàng Phê  mới thấy  bao cấp  được định nghĩa đầy đủ.

   

  Từ nhiều năm nay trong xã hội đang tồn tại một tình trạng sinh hoạt tinh thần có thực -- những vấn đề có ý nghĩa nhận thức như “ta đang là gì”, “ở vào tình trạng như thế nào“ không được xã hội xem trọng; mỗi khi cần thay đổi, chỉ thích bàn nên làm thế này thế nọ mà không chịu nghĩ lại xem bắt đầu từ đâu, dân mình đang có những chỗ hay chỗ dở ra sao. Nói chung nhiều lúc thích sống về phía trước hơn là quay lại chuyện cũ. Mà khi người ta không tự hiểu mình, không có sự đánh giá đúng đắn về quá khứ thì mọi hành động lao tới phía trước rất dễ sai lệch.

     

    Xét trên mặt bằng chung đó, phải nói phòng trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp là một nỗ lực khai phá mở ra một hướng nhìn lại quá khứ rất có triển vọng. Nhờ sự gợi ý và giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế, lần đầu tiên có một cách tổng kết lịch sử  theo cung cách rất hiện đại. Nhân triển lãm người ta có thể nghĩ lại về cách sống một thời, từ đó liên hệ với sự phát triển của con người trong hoàn cảnh của nền kinh tế thị trường hôm nay.

     

Mọi chuyện có từ bao giờ

 hay là một ít sự kiện “đã thuộc về lịch sử “

        Sẽ là không thừa nếu “chính danh“ một chút, tức tìm cách gọi đúng tên sự vật trước khi bàn về sự vật đó.

       Về mặt thời gian, lẽ ra, cuộc trưng bày trên Bảo tàng dân tộc học phải mang cái tên là Cuộc sống Hà Nội thời hậu chiến. Còn nếu muốn đi vào thực chất kiểu sống những năm ấy, thay cho bao cấp, người ta có thể dùng những chữ khác như thời trì trệ, hoặc nói như tên một tác phẩm của Lê Lựu, thời xa vắng.

     Bề nào mà xét thì cũng phải có cái nhìn bao quát từ chiến tranh chống Mỹ, và lùi lại cả giai đoạn từ sau 1954 trở đi.

    Trong cái mạch chung đó, giai đoạn sau từ 1975  cho tới 1986 chỉ là một phân đoạn -- tuy là phân đoạn chín nhất, bộc lộ một cách đầy đủ nhất bản chất của một giai đoạn phát triển xã hội.

    

    Những ai từng đọc các bộ lịch sử Liên xô cũ hẳn nhớ, chủ nghĩa Cộng sản thời chiến từng được giải thích khá kỹ và tinh thần của nó còn chi phối tới khi nhà nước sụp đổ. Ở Trung quốc, những quan niệm cơ bản đã được thể nghiệm từ thời Diên An để sau 1949 triển khai  ra toàn đại lục rộng lớn, kể cả Bắc Kinh Thượng Hải.

      Còn đối với nhiều người dân Hà Nội, thì đó là cả một câu chuyện khá dài.

     Trong hồi ký Cát bụi chân ai, Tô Hoài từng kể về không khí Thủ đô sau 1954 :

       “Chín năm ở rừng, không có lương, quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt cũng lấy ở kho từng miếng, cơ quan sắm dao kéo húi đầu cho nhau. Trở lại thành phố, khó đâu chưa biết, nhưng thức ăn hàng hóa ê hề. Chiều chiều, uống bia Đức chai lùn bên gốc liễu nhà Thủy tạ. Nhà hàng Phú Gia vang đỏ vang hồng vang trắng vỏ còn dính rơm như vừa lấy ở dưới hầm lên. Áo khoác da lông cừu Mông Cổ ấm rực, người ta mua về phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung quốc thôi thì thượng vàng hạ cám. Kim sào, kim khâu, chỉ mầu, củ cải, ca la thầu sắng xấu mỳ chính xe đạp cái xe trâu cao ngồng. Ca xi-rô ngọt pha vào bia cho  những người mới tập tọng uống bia. Bắt đầu được lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng la cà hàng quán được. Có cảm tưởng cả loài người tiến bộ  đổ của đến mừng  Việt Nam Điện Biên Phủ “ (Điều thú vị là đoạn này của Tô Hoài  lại được sử dụng như  là tài liệu minh họa tốt trong một cuốn sách giáo khoa về kinh tế, cuốn Kinh tế Việt Nam 1945-2000, sẽ nói ở dưới.)                                                                                                                                                                                                 

       Nhưng cái giai đoạn thoải mái  mà Tô Hoài tả đó chỉ ngắn ngủi chốc lát. Hàng hóa nhiều không phải vì làm ra mà vì mới tiếp quản thành phố sẵn của kho đem bán. Nguồn hàng không phải tự mình làm ra ấy cạn rất nhanh. Và xác thực biết bao là cái câu mà một tờ báo lấy làm đầu đề “màu thời gian xám ngắt “ (Tiền phong chủ nhật 17-6-06) bắt đầu từ đây ( Nhại một câu thơ của Đoàn Phú Tứ Màu thời gian tím ngát, bài Hương thời gian )

      

     Trước tiên là sự thiếu thốn.

      Nhiều mặt hàng thiết yếu sản xuất ra không đủ, phải bán nhỏ giọt mà là nhỏ giọt theo kiểu người thời nay khó tưởng tượng được.

     Sách Kinh tế Việt nam 1945-2000 (tập II 1955-1975 – Đặng Phong chủ biên Nhà xuất bản Khoa học xã hội –2005. Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị khoa học thực sự. Một số trích dẫn dưới đây có ghi chú số trang  là lấy từ bản in này)  có chụp lại thông báo của Sở thương nghiệp Hà Nội 11-1956,  trong đó nói rõ các đại lý diêm được “nâng mức bán lẻ từ một đến năm bao “, tức là mỗi người được mua năm bao sau một lần xếp hàng.

     Đây nữa, một ít con số mà tôi “làm cái sái nhì“ lấy lại từ cuốn sách vừa dẫn.

    Trên công báo 1955, có ghi mỗi công nhân viên về nguyên tắc mỗi năm được cấp 5-7 mét vải.

    Đầu 1955, sinh đẻ được cấp 5 mét diềm bâu khổ 70mm, 30 kg gạo; văn phòng phí gồm 1,5 thếp giấy / tháng / người. Bình quân 10 người / tờ báo Nhân dân, một tờ Cứu quốc. Quạt điện cấp cho các vị  từ cấp  Thường vụ Ban thường trực Quốc Hội, Bộ Thứ trưởng, các chuyên gia nước ngoài, các đoàn ngoại giao. Cũng diện Bộ Thứ trưởng được dùng điện đèn, điện quạt tùy yêu cầu ( tr.665)

 

      Sự thiếu thốn này kéo theo cả một quy trình sống mà người ta phải thích ứng. Khoảng trước sau 1960, bắt đầu có chế độ sổ gạo áp dụng cho toàn dân. Rồi tiếp sau đó, dường như tất cả nhu yếu phẩm đều có phiếu, như phiếu mua pin cho máy thu thanh – mà hồi đó người Hà Nội quen gọi là đài --, phiếu mua phụ tùng xe đạp.

    Có hai điều không cần phải nói ai cũng biết

1/ định lượng cung cấp cho đại bộ phận các thành viên xã hội ngày mỗi giảm

2/ chất lượng các nhu yếu phẩm ngày một kém. Điều này đã được một cán bộ thương nghiệp nhẩm thành bài vè

Nhất gạo nhì rau

Tam dầu tứ muối

Thịt thì đuôi đuối

Cá biển mất mùa

 Đậu phụ chua chua

 Nước chấm nhạt thếch

 Mì chính có đếch

Vải sợi chưa về

 Săm lớp thiếu ghê

 Cái gì cũng thiếu (tr 412).

Tất cả cứ thế mà trượt dài cho đến giai đoạn hậu chiến.

    

Thích hợp nhưng để lại nhiều di lụy

    Thời bao cấp (75-86) luôn được biết đến như một thời gian khó với cơ chế quản lý  kinh tế xã hội không thích hợp.

     Trong bản giới thiệu  trước khi dẫn vào Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp có ghi như vậy.

     Xét theo lẽ phải thông  thường,  có thể  thấy  điều đó là đúng. Làm sao mà quản lý xã hội kiểu đó là thích hợp được?

     Nhưng nên nhớ điểm xuất phát của chính sách này là hoàn cảnh “thời chiến“, một cuộc chiến tranh chúng ta luôn luôn ở thế yếu và phải có những nỗ lực vượt bậc.

    Tất cả cho tiền tuyến. Thóc không thiếu một cân – quân không thiếu một người. Những khẩu hiệu đó được hiểu chính xác đến từng chữ. Người ở hậu phương lúc này như sống theo ăn theo. Thế thì có thiếu cũng là bình thường !

    Vả chăng, để tiến hành chiến tranh, xã hội cần phải kết lại thành một khối rắn chắc, mà muốn thế, cần ghép mọi người vào tổ chức, nói theo một danh từ của lịch sử, là “đoàn ngũ hóa“ họ. Việc phân phối theo kiểu bao cấp chỉ là kết quả của một quá trình lớn  lao hơn: Tất cả những gì thuộc về con người phải được quản lý.

   

     Nếu nhìn nhận liền cả một quá trình như thế thì có thể  thấy rằng không phải cái cơ chế quản lý kinh tế  mà ta gọi là bao cấp ấy là không thích hợp,  mà có thể nói nó là một cái gì hết sức thích hợp mới đúng.   Tương tự như câu chuyện hợp tác hóa. Chắc chắn là không có hợp tác hóa không thể  đánh Mỹ được. Tại sao vậy? Bởi có hợp tác hóa thì mới dễ dàng huy động được những sản phẩm mà nông dân sản xuất được để tiếp tế cho chiến trường. Có hợp tác hóa mới  dễ đưa người đi bộ đội.

     Đó không phải là một kiểu quản lý khôn ngoan và có hiệu quả nhan bản ư? Tất nhiên rồi. Nhưng không thể có cách nào khác.

     Ra đời trên cơ sở  một cơ chế sản xuất bị kìm hãm, quy trình bao cấp sau đó quay trở lại củng cố sự kìm hãm đó, tức  làm cho tình trạng trì trệ càng thêm trì trệ. Cái được rất nhiều, nhưng cái mất còn lớn hơn nữa. Và cái đáng sợ nhất là không ít người coi cách quản lý đó là duy nhất thích hợp nên không nghĩ đến chuyện làm khác đi, thậm chí hủy bỏ, khi hoàn cảnh đã thay đổi.

     Bởi nó tiếp tục duy trì có tới cả chục năm sau chiến tranh, nên cuộc trưng bày mới được khuôn vào quãng  thời  gian 75-86 nói trên. Lúc này cái chế độ bao cấp đã đạt đến mức “cổ điển” của nó. Người ta sống trong đó như cá trong nước, nghĩa là tự nhiên thuần thục, và đành lòng  chấp nhận tất cả.

Chỉ lấy ví dụ về lương,đây là con số đưa ra trong cuốn sách Kinh tế Việt Nam1955-2000 cách tính toán mới phân tích mới ( Trần Văn Thọ  chủ biên, nhà xuất bản Thống kê 2000 ): so  với  năm 1978, thì mức lương năm1980 chỉ bằng 51,1%  và năm 1984 chỉ còn 32,7%. (Dẫn lại từ Phạm Thị Quý chủ biên, Giáo trình lịch sử kinh tế Việt nam, NXB Đại học kinh tế quốc dân, 2006, tr 399.) Sự vô lý đã lên đến mức  không cách gì bào chữa được nữa. 

Những sự gậm nhấm thường trực 

    Tiếu lâm Việt nam nổi tiếng với các loại truyện có liên quan tới miếng ăn, từ thày đồ ăn vụng mật tới anh chàng sang nhà bố vợ, nhờ con gà vướng dây mà gắp lia lịa. Với rất nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, với Đói của Thạch Lam hoặc Một bữa no của Nam Cao … người ta đã thấy văn chương tiền chiến có nhiều tác phẩm cảm động đi vào miêu tả những liên hệ của con người với miếng ăn. Hồi ký Từ  bến sông Thương của Anh Thơ kể hồi kháng chiến chống Pháp, có lần tác giả bắt gặp Xuân Diệu đang trên đường vào Khu Bốn.  Hỏi  tại sao vào, mới biết ra ở Việt Bắc thiếu cái ăn quá, tác giả Thơ thơ  “du“ Thanh Nghệ để tìm cách cải thiện sức khỏe.

    Mối quan hệ giữa con người và miếng ăn vốn đặc trưng cho mỗi thời đại.

    Tháng mười 1954, khi Hà Nội mới giải phóng, tôi ở vào tuổi 12. Trong số những kỷ niệm liên quan tới sự kiện này, có việc một hôm chính quyền bán theo giá rẻ gần như cho không mỗi hộ một kg đường. Cả cái xóm nghèo Thụy Khuê chúng tôi háo hức chờ đợi. Và ở tuổi 12, tôi được theo người lớn đi xếp hàng từ bốn giờ sáng. Quý lắm, hể hả lắm, mỗi lần nói tới giải phóng Thủ đô lại nhớ cân đường mua rẻ.  

      Gần mười năm sau, mùa hè 1963, trong những ngày học Đại học sư phạm Vinh, một lần lớp Văn II B  của tôi lên huyện miền núi Nghi Lộc giúp dân thu hoạch lúa. Để động viên, cấp trên phát chúng tôi mỗi người một lạng đường gói vào tờ giấy báo. Xin phép gạt nỗi xấu hổ ra một bên để thú thực là ngay trong buổi họp, nhiều sinh viên, trong đó có tôi, đã  giở cái gói mỏng teo đó ra, liếm sạch, vừa liếm vừa nhìn nhau cười, vì không ai bảo ai mà ứng xử giống nhau thế !

      Đúng như một trong những câu ghi trên tường cuộc triển lãm này đã xác định, trong suốt cái thời gian khó đó, có những lúc cái sự ăn trở thành tất cả đối với con người. Từ sáng đến tối chỉ nghĩ chuyện ăn. Ăn là thiêng liêng. Ăn là dấu hiệu chứng tỏ mình đang được sống. Thay cho câu “tôi tư duy vậy tôi tồn tại “, điều tâm niệm của con người lúc này là  “tôi còn được ăn, vậy tôi tồn tại “.

       Ngoài sự ăn, trong may mặc, đi lại, và cả trong vui chơi giải trí nữa, con người   lúc ấy cũng ở vào tình trạng tương tự.  Những câu nhại Kiều Bắt  ở trần phải ở trần -- cho may ô mới được phần may ô  lan ra như cỏ dại, câu này chết đi, câu khác lại được truyền tụng.

     Nói rằng thiếu thốn còn quá đơn giản, phải nói  sự thiếu thốn lúc ấy  đã lên đến mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng. Hơn nữa, sự thiếu thốn triền miên ấy đã in dấu vào  tâm lý mọi người    trở nên một cách nghĩ thường trực,  nhìn bên ngoài  có chút gì kỳ quái, thế mới đáng sợ.

      Lại nhớ Ngô Tất Tố có bài tiểu phẩm kể Làm no hay là cái ăn trong những ngày nước ngập. Trong số những người phát biểu cảm tưởng sau khi xem trưng bày Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp, cũng có người có cái ý nghĩ tương tự như nhân vật Ngô Tất Tố,  tức là nói đến  khả năng vượt lên trên sự đói, với một chút tự hào. Tuy nhiên, nếu có muốn cười thì thật ra nhiều người chúng ta thường đã phải giấu đi những giọt nước mắt. 

      Vâng, làm sao khỏi ứa nước mắt, khi nghĩ tới những sáng kiến hồi đó. Nuôi lợn ngay trong các căn hộ 20 mét của các chung cư. Lộn cổ áo sơ mi và

“tích kê“  những chỗ ống quần dễ  rách. Nhặt mảnh  phim về kết thành làn. Thu góp từng cái ruột bút bi viết hết để mang về bơm lại. Lộn trái phong bì để sử dụng thêm lần nữa … Nhiều chuyện lắm và có những chuyện bây giờ phải diễn giải ngọn ngành mới hiểu nổi.

      Bảo rằng đó là tiềm năng sáng tạo được bộc lộ thì cũng đúng. Nhưng tôi cứ thấy tủi cho chữ sáng tạo thế nào. Sáng tạo liều, sáng tạo quẩn, sáng tạo lấy được …, chắc còn có thể mệnh danh cho sự sáng tạo ấy bằng nhiều chữ nghĩa xót xa khác.


Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn