Tôi thường đọc lại Xuân vọng một bài thơ Đỗ Phủ (712-770) viết trong những năm chiến tranh - loạn An Sử đời Đường
春望
國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。
XUÂN VỌNG
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc
thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh
tâm.
Phong hoả liên tam
nguyệt,
Gia thư để vạn câm
(kim).
Bạch đầu tao cánh
đoản,
Hồn dục bất thăng
trâm.
dịch nghĩa
hoặc có người hiểu là
ĐỐI DIỆN MÙA XUÂN--
Thành ngày xuân hoang
tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế,
con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ,
Buồn vì ly biệt, nghe
tiếng chim hót cũng thấy ghê sợ
Khói lửa báo giặc giã
cháy suốt ba tháng liền [nghĩa là còn đánh nhau nữa].
Thư nhà lúc này ngàn
vạn cũng không mua nổi.
Gãi mái đầu bạc thấy
càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà
chẳng được.
Bản dịch khuyết danh:
Nước mất, còn sông
núi
Thành xuân cỏ chất
chồng
Hoa thương thời nhỏ
lệ
Chim giận biệt đau
lòng
Khói lửa liền ba
tháng
Thư quê đáng vạn đồng
Bạc đầu cùn mái tóc
Trâm bạc khó cài xong
Bản dịch Khương Hữu Dụng:
Nước mất nhưng núi
sông còn,
Thành xuân quạnh quẽ
um tùm cỏ gai.
Cảm thời, hoa để lệ
rơi,
Biệt ly hoa cũng vì
người xót xa.
Tháng ba rồi đến
tháng ba,
Thư nhà buổi loạn đúng
là vàng muôn.
Gãi đầu tóc bạc thêm
cùn,
Búi lên sổ xuống,
trâm luồn lại rơi.
Bản dịch Nam Trân tức Tương Như:
Thành xuân cảnh um
tùm
Biệt ly lòng chim hãi
Cám cảnh lệ hoa tuôn
Lửa hiệu liền ba
tháng
Thư nhà đáng mấy muôn
Gãi hoài cùn tóc bạc
Chừng tuột chiếc trâm luôn
Tôi đọc bài thơ này
lần đầu qua cuốn Thơ Đường tập II in
ở Hà Nội (1963), chỉ láng máng cảm thấy thích vì nghe đâu nó được coi là một
trong những bài hay nhất của kho tàng thơ đời Đường và đã đưa vào Đường thi tam bách thủ.
Theo Wikipedia tiếng Việt Đường thi tam bách thủ (chữ Hán phồn thể: 唐詩三百首) là một tuyển tập gồm hơn ba trăm bài thơ Đường do học giả Tôn Thù (1722-1778), còn được biết đến là ‘Hành Đường thoái sĩ’, tuyển soạn vào khoảng năm 1763 thời nhà Thanh.
Trong cái non nớt của
tuổi trẻ, hồi ấy tôi chỉ thích mấy câu ba bốn
- Cảm thời, hoa để lệ
rơi,
Biệt ly hoa cũng vì
người xót xa.
Các bản cũ ở VN
thường giải thích hai câu ba bốn này như sau = -- Cảm thời thế, nên hoa đầm
nước mắt
– Đau biệt ly, chim
cũng khắc khoải lòng"(Thơ Đường tập II ).
Từ đó ta hiểu sự buồn
bã lan từ khung cảnh văn hóa sang khung cảnh thiên nhiên, và về tu từ tức là
một biện pháp nhân cách hóa đã được sử dụng
Ở phần dịch nôm nói
trên, sở dĩ tôi ghi Cảm thương thời thế
con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ, / Buồn vì ly biệt, nghe tiếng chim hót cũng
thấy ghê sợ là do đọc theo mấy bản Đường
thi tam bách thủ do Trung quốc làm mà tôi đang có trong tay như bản của Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1993,
bản tân tuyển của Nhân dân văn học xuất
bản xã 1998, bản của Thời đại văn
nghệ xuất bản xã, 2003…
Bản làm cho thiếu nhi
của nhà Bắc Kinh thiếu niên nhi đồng xuất bản xã 1996 thì viết “Hoa [vẫn đẹp thế ] khiến cho con người rơi lệ, chim [vẫn vui thế] làm cho người đau lòng”, cũng gần với các ý trên.
Nhưng hay nhất trong Xuân vọng chính là hai câu đầu và đây là
điều mà mãi sau chiến tranh tôi mới hiểu.
Một người bạn tôi là
họa sĩ Nguyễn Quân cũng rất thích thơ Đường, gặp nhau mỗi khi hết chuyện là
nhắc thơ Đường, nhắc Quốc phá sơn hà tại và thế là lại lan man đủ chuyện văn chương và thời thế.
Chỉ có năm chữ mà
phác họa ra cả khung cảnh chiến tranh và cái hậu quả tổng quát của nó.
Cái làm ta cám cảnh
chính là tình trạng nước đôi, tất cả dường như vẫn còn,
mà tất cả lại đã mất.
Cái còn chỉ làm tăng thêm vẻ bi thảm mà sự mất mát mang lại.
Theo cách hiểu này,
bài thơ toát ra một tinh thần nhân bản rất hiện đại.
Tất cả dường như vẫn còn,
mà tất cả lại đã mất .
Có lẽ đây cũng là tâm trạng khiến cho một ai
đó đã thốt lên rằng, trong chiến tranh không bao giờ có kẻ chiến thắng với
nghĩa trọn vẹn của chữ ấy.
Kẻ thù của ta càng
dũng mãnh thì chiến thắng của ta càng thêm vẻ vinh quang, cố nhiên rồi. Nhưng
để thắng một kẻ thù dũng mãnh như thế, hẳn ta đã trầy da sứt vẩy và trở nên
thân tàn ma dại.
Sau chiến tranh, bên
thắng cuộc lại thường có tính hiếu thắng tưởng mình làm gì cũng được. Họ sẽ
thua trong công cuộc hồi phục là vì vậy.
Hai câu cuối bài thơ
nói đến một thứ buồn bã mà con người không sao vượt lên nổi. Con người lúc này
đã tiều tụy thân thể hao mòn tinh thần bại hoại, cảm giác cuối cùng còn lại chỉ
là sự bất lực.
***
Thế hệ tôi vừa trên
dưới hai mươi thì bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt mà mãi tới 4-1975 mới kết
thúc. Một số chúng tôi lại có trong tay ngòi bút, chúng tôi làm thơ làm văn
viết sách viết báo. Viết để làm gì? Hồi ấy cả bọn chúng tôi sống theo hướng dẫn
là viết để động viên người lính ở chiến trường. Chúng tôi không có thời gian và
cũng được hướng dẫn là không cần biết là người xưa đã viết về chiến tranh như
thế nào.
Thơ làm hồi chống Mỹ
in ở Hà Nội thường kỵ nói về cảnh tàn phá và lại có một thứ luật lệ cấm tiệt
các nhà thơ không được nói đến nỗi buồn.
Thơ về chiến tranh mà
chỉ toàn thấy thơ vui.
Ngày nay đọc lại một
bài như bài Tiểu đội xe không kính
của Phạm Tiến Duật -- bài thơ được đưa vào dạy ở nhà trường -- không những thấy
ngớ ngẩn vì câu lý sự cùn Không có kính
không phải vì không có kính – Bom giật bom rung kính rụng mất rồi --, mà
còn thấy giả tạo thô thiển trong cái câu tả thái độ con người được trưng ra như
một niềm tự hào – Nhìn nhau mặt lấm cười
ha ha.
Trở lại với Xuân vọng trên đây của Đỗ Phủ, thấy đó như
một sự miêu tả khái quát về chiến tranh.
Dường như bắt đầu bài
thơ, Đỗ Phủ đã chìm trong cảm giác buồn bã và ông đã để mặc cho dòng cảm xúc
của mình trôi nổi, đến nỗi người ta thường cảm thấy hụt hẫng khi đọc đến những
chữ cuối.
Hụt hẫng chốc lát mà
bâng khuâng lâu dài.
Nhà thơ không lo lắng
xem mình viết thế này đã đúng niêm luật chưa, nhất là không tính viết để làm
gì, mình đang thuộc về bên nào, bên thua hay bên thắng. Ông chỉ ghi lại một cảm
giác mà con người xưa nay ở địa vị ông thường trải nghiệm. Con người gánh chịu
chiến tranh trong các thời đại về sau đều tìm thấy mình qua thơ ông, dù bài thơ
được ông viết tính tới nay đã trên ngàn năm.