Chiến
tranh nhìn qua số phận cá nhân
Ra khỏi chiến tranh, trong Kiên hàm chứa
một mâu thuẫn thường trực. Một mặt anh chai lì đi. Mặt khác, trong anh, dòng ký
ức về chiến tranh lại cuồn cuộn chảy và những chuyện nhỡn tiền chỉ là đầu mối
để anh nhớ lại chuyện cũ, thúc đẩy con người nhân vật gắng vươn lên để nhận thức về quá khứ. Thành
ra cái vẻ uể oải “chẳng biết dùng đời mình vào chuyện gì” (tr 77 – số trang ghi
theo bản của Nhà Xuất bản Hội nhà văn, 1991) chỉ là bề ngoài. Trong cái dạng
sống riêng của mình, Kiên cực kỳ nhạy cảm và ngầm chứa một khao khát vươn tới
không gì cản nổi.
Có một quy phạm thường xuyên chi phối dòng
tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh vốn đang còn khá lèo tèo. Bất chấp
việc chúng được viết ngay trong thời bom đạn hay trong thời bình mấy chục năm
về sau, đó thường là những cuốn sách dựng lại cả một bức tranh mở ra theo bề
rộng, chiến tranh được ví với một trận cuồng phong, hoặc một cỗ máy khổng lồ có
sự vận động cùng lúc của nhiều số phận. Con người trong các tác phẩm đó được
miêu tả trong hình thế một nhóm, một tập thể (từ nhỏ đến lớn) có tổ chức, có
định hướng rõ ràng, và mỗi cá nhân khi vô tình khi cố ý không hề có ý muốn trở
thành độc lập bên cạnh đám đông. Mặc dù vẫn còn những nét riêng tư, nhưng họ
không bao giờ tồn tại như những con người tự thân, mà chỉ được xem như người
phát ngôn cho một vấn đề của xã hội.
Chỗ giống nhau giữa Xung kích của
Nguyễn Đình Thi và Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu chẳng hạn là
cả hai đều bám vào một sự kiện cụ thể (mỗi cuốn sử dụng một chiến dịch “làm
nền”) rồi trong đó, một dàn nhân vật đi về lui tới suy nghĩ. Cái mà người ta
còn lưu lại trong đầu sau khi đọc là một không khí chiến tranh nói chung, còn
vấn đề “con người trong chiến tranh” chỉ là một nhánh phụ. Để hình dung ra con
người, bạn đọc phải đi theo lối đường vòng, và chắp nối người này một chút người
kia một chút.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ngả sang một cách viết khác. Thực tế là
trong cuốn tiểu thuyết này, người ta có dịp bắt gặp toàn bộ chiến tranh - một
cuộc chiến tranh với đủ những địa điểm và những khoảnh khắc tiêu biểu từ ngày
đầu đến ngày cuối (không khí Hà Nội khi thành phố bắt đầu tiễn con em ra chiến
trường; những chặng đường từ hậu phương tới mặt trận; những ngày sau tết Mậu
Thân; giải phóng Sài Gòn…). Song tất cả đều thông qua ý thức của nhân vật Kiên
chứ không phải miêu tả trực tiếp. Tức là ở đây, chiến tranh chỉ được thể hiện
qua một con người, tác phẩm từ đầu đến cuối men theo những ý nghĩ của nhân vật,
dày đặc vui buồn, hối hận, trăn trở, bất lực của anh ta. Trùm lên tất cả chỉ có
một đường dây là từng trải của Kiên, mạch suy nghĩ của Kiên, và bao quát hơn là
số phận của Kiên. Thật khó đẩy tác phẩm vào trong vòng tay của những khái niệm
như “bức tranh toàn cảnh”, hoặc “một thiên sử thi hoành tráng” mà chúng ta quen
nghĩ.
Trong khi mọi sự kiện trước sau bị đảo lộn
về thời gian thì chúng lại tỏ ra rất mạch lạc, nếu xét theo sự phát triển của ý
nghĩ và tình cảm của nhân vật chính. Mỗi sự kiện cụ thể ngoài ý nghĩa tự thân
có thêm một tầng khái quát: này là những lúc vui; này là những lúc chết lặng đi
vì buồn; những lần hoang mang tuyệt vọng (không lần nào giống lần nào); một
phen kinh ngạc vì cách xử sự của người này người kia. Trong suốt cuốn sách,
Kiên như chỉ có một mình. Các nhân vật khác chỉ sống trong ý nghĩ cả Kiên,
trong đó có một số nhân vật chỉ ngẫu nhiên được nêu ra rồi mất hút. Bù lại, tự
thân Kiên đã khá đa dạng. Gần như không có việc nào của lính mà Kiên không trải
qua. Trong anh, chất lính được chưng cất và cô kết lại. Lính nghĩa là không có
quyền lựa chọn số phận của mình. Lính nghĩa là gặp đâu hay đấy ngẫu nhiên thất
thường trôi nổi theo sự đưa đẩy của hoàn cảnh và không bao giờ dám đặt câu hỏi
tại sao mình lại như thế này mà không như thế khác. Lính nhiều khi đồng nghĩa
với thụ động, vô vọng, bất lực.
Cảm giác của chúng ta về chất lính trong
Kiên còn được củng cố, bởi với anh, cái chết luôn luôn trở lại như một ám ảnh.
Suy nghĩ về cái chết thường trực khi ăn cũng như khi ngủ, khi Kiên đơn độc một
mình, cũng như khi anh vui vầy giữa bạn bè. Với người lính này, cái chết là một
bộ phận của chính cuộc sống.
Một trong những lý do khiến cho nhiều người
kiên trì lối viết “tập thể nhân vật” nói ở đoạn trên: người ta cho rằng làm thế
mới có khả năng xây dựng được những điển hình khác nhau và cái nào cũng cụ thể
sinh động, từ đó gộp cả lại khái quát nên thứ “chân dung nhóm” bao quát các
kiểu dạng con người đương thời. Xét về khía cạnh nghề nghiệp, tuy không tuyên
bố, nhưng dường như Bảo Ninh muốn nói
thật ra một nhà văn không thể biết nhiều như anh ta vẫn tưởng; may ra anh
ta chỉ biết chính mình. Và từng con người mới quan trọng, từng con người chính
là “vấn đề của mọi vấn đề”, kể cả khi người ta sống và nghĩ về chiến tranh.
Cuộc
sống dưới dạng hồi ức
Sự chai lì thật ra vốn được hình thành dần
trong quãng đời cầm súng của nhân vật. Những năm ấy, Kiên đã cảm thấy, “không
phải là mình đang sống mà như đang bị mắc kẹt trong cõi đời này” (87). Những gì
tốt đẹp trong ý nghĩ và tình cảm sớm bị mất đi. Người ta tự nguyện gác hết suy
nghĩ để hành động.Sang thời hậu chiến rồi
cái nếp sống bức bối chật hẹp như thế còn được tô đậm thêm bằng hàng loạt bất lực
khác. Kiên không biết lao vào kiếm sống và hưởng thụ như mọi người. Cả đến
những chuyện riêng tư cũng không biết lo, có bao nhiêu việc đáng làm thì Kiên lại
đã không làm, đến khi cái câu hỏi khó chịu “đi đâu bây giờ, làm gì bây giờ?”
ngày ngày vang lên như một ám ảnh, thì quả thật là một cách xác nhận về tình
trạng bế tắc thực sự.
Thời bình cũng như thời chiến, Kiên đều đơn
độc. Chung quanh anh là những người vừa ra khỏi chiến tranh đã lập tức quên
lãng, lao đầu vào cuộc kiếm sống. Trong con mắt họ, Kiên như một kẻ mộng du.
Nhưng chỉ cần đứng lùi ra xa một chút,
nhìn chặng đường chiến tranh như một phân đoạn lịch sử, chúng ta sẽ thấy ngay
rằng kẻ tỉnh táo không phải là cái đám đông hỗn độn kia, mà chính là Kiên. Đám
đông lao vào kiếm ăn thực ra đang mê muội. Ngược lại người chiến binh sống vất
va vất vưởng và tưởng đời mình như bỏ đi, mới là kẻ sáng suốt.
Nhà văn Pháp J. Cocteau từng viết về mối
quan hệ giữa một thi sĩ với hoàn cảnh: “Ở đây chỉ một mình thi sĩ là người sống
giữa những người chết, và chính trong giờ phút ấy thi sĩ đã làm mồi cho
chính sự chết - nó đang sống hơn là thi sĩ sống.” Tình cảnh của Kiên
cũng có những nét tương tự.
Hồi ức làm nên lý do để sống của những
người lính đã sống hết mình với chiến tranh. Trong lịch sử văn học nhiều nước,
hàng loạt cuốn tiểu thuyết viết về những người lính ấy được viết bởi sự thôi
thúc phải nói to lên cái lời đề nghị đơn giản: không được quên lãng. Một cuốn
tiểu thuyết của nhà văn Nga V. Rasputin mang tên Hãy sống và hãy nhớ
(bản dịch tiếng Việt đổi đi một chút, gọi là Sống mà nhớ lấy).
Còn ở
Việt Nam, cuốn truyện vừa của Nguyễn Minh Châu mang tên Cỏ lau cũng có
một ý tương tự. Câu chuyện xoay quanh công việc đám lính hậu chiến đi tìm hài
cốt những người chết. Sau khi bảo rằng vùng này đất tốt quá chừng, vô khối là
đất mà chỗ nào cũng chỉ có giống cỏ lau mọc, tác giả viết, “Với bao nỗi toan
tính hối hả trong thời bình, mỗi con người chúng ta có lẽ đôi khi cũng là một
cánh rừng cỏ lau giàu sức sống, rất chóng lãng quên những người lính đã ngã
xuống”. Bởi lãng quên đe dọa đến chính cuộc sống, người ta phải tiến hành cuộc
chiến đấu dai dẳng để chống lại nó. Viết văn với Nguyễn Minh Châu hay Bảo Ninh
nói ở đây chính là để chống lại sự lãng quên đó.
Lạ
hóa chính mình lạ hóa hoàn cảnh
Những
ai đã đọc Thời xa vắng, hẳn nhớ cách của Lê Lựu viết về quá khứ trong
đó: quá trình tham gia chiến đấu của Sài không được miêu tả cặn kẽ. Song nhà
văn vẫn làm cho người đọc thấy rõ Sài là một sản phẩm của chiến tranh, chỉ
chiến tranh mới đẻ ra những con người tương tự.
Có
thể nói một đặc trưng của bản thân Sài là thái độ quan liêu với chính mình. Sài cũng ghi xương khắc cốt rằng mình lớn lên,
bắt đầu làm người thực sự từ trong chiến tranh. Song thực chất cái con người
của chiến tranh ở đây nó là thế nào, nó cụ thể ra sao Sài không biết và trước tiên là không thèm để
ý. Ngược lại Sài cứ nhơn nhơn như không, lại còn luôn tự lừa mình rằng chẳng có
điều gì mà mình không hiểu, và rộng hơn tự hào rằng ra khỏi chiến tranh mà bản
thân cái phần tốt đẹp trong con người mình vẫn còn nguyên vẹn.
Niềm tự tin được đẩy lên thành một ảo tưởng
ấy đã làm nên cả đặc trưng của nhân vật trong Thời xa vắng. Thứ tự tin
nông nổi và có vẻ như đáng yêu đó là nguồn gốc của bao thất bại đến với Sài về
sau. Con người rút cục trở thành tù nhân của hoàn cảnh và càng lao đầu vào hành
động tình thế càng trở nên tuyệt vọng.
Bề ngoài Kiên của Bảo Ninh không được như
Sài. Dường như anh không ra khỏi chiến tranh. Mưu cầu hạnh phúc cho bản thân,
anh không biết. Những trò hưởng lạc, anh không màng. Nhưng vẫn có thể nói so
với Sài, Kiên vượt lên một bực ở chỗ toàn bộ sức sống của anh tập trung vào việc
nhận diện chiến tranh. Nghĩ về nó. Ngày đêm ăn ngủ lúc nào cũng có nó. Muốn
khôi phục lại bộ mặt của chiến tranh như nó vốn vậy. Để làm việc đó, anh sẵn
sàng để cho ký ức nổi lên hỗn loạn, với dụng ý rằng sau đó tìm cách kiểm soát
nó, lý giải nó một cách chủ động.
Lúc nào chiến tranh cũng được Kiên nhìn
như thuở ban đầu. Anh đến với nó từ một sự vô tư không thành kiến. Luôn luôn
thú thực rằng mình chưa hiểu. Luôn luôn sợ quên, sợ nhầm. Nghĩa là Kiên đã dọn
lòng một cách thanh thản, đã tạo cho mình khả năng đối diện với một thực tế khó
nhằn và có được ý chí ngoan cường trong việc chinh phục nó chiếm lĩnh nó. Nói
cho đúng ra, khi tự nhủ rằng với cuộc chiến tranh ấy, mình phải viết, thật ra
anh đã bước đầu khách quan hóa nó, tách nó ra khỏi mình, lạ hóa nó để tiêu hóa
nó. Có thể nói Kiên đã tìm thấy một đối tác tốt để đồng hành trên suốt quãng
đường đời còn lại.
Có một sự thực là từ lúc chưa xung vào quân
ngũ đến lúc trở về, quan niệm của Kiên về vị trí và mối quan hệ của mình với
chiến tranh là nhất quán.
Một
mặt, như Kiên từng xác định, giữa cuộc chiến tranh to lớn, anh “chẳng là gì cả”
mà chỉ là một thứ đinh ốc nhỏ, hoặc như
chữ anh dùng “loại con sâu cái kiến” trong cuộc biến động vĩ đại; và anh bằng
lòng với số phận đó.
Mặt khác, hình như ở Kiên luôn luôn có một
con người nữa, tách ra bên ngoài để soi xét mọi chuyện, và đây là khía cạnh tự
do bên trong, nó làm nên tầm vóc của nhân vật. Lúc đã suy nghĩ thì nhân vật
không còn bị một ràng buộc nào. Không bị bắt vít vào những quan niệm thông
thường. Không bị ảnh hưởng của những đồng đội chung quanh. Một cái gì cơ bản
hơn, những nguyên tắc của việc làm người
- nếu có thể nói như thế - chi phối anh, len lỏi trong những suy nghĩ của anh.
Những kiến thức mà tuổi trẻ anh đã tiếp nhận được từ những người thân và bè bạn của nền giáo dục ở
nhà trường thường xuyên trở lại để giúp anh so sánh đối chiếu với thực tế trước
mắt.
Trong cái vẻ ương ương gàn gàn, Kiên
vượt lên trên những người thông thường. Có thể nói trong văn học Việt Nam, đây
là một trong những trường hợp hiếm hoi, ở đó con người giữ nguyên được cảm giác
ngạc nhiên kỳ lạ về chính cuộc sống mà họ đã sống. Nhờ thế, một cuộc chiến
tranh chưa được biết tới lại hiện ra sắc nét và độc đáo, nghĩa là không giống
cuộc chiến thông thường mọi người vẫn hiểu.
Nhận
thức như một lẽ sống
Trong
cảm nghĩ của Kiên, chiến trường có lúc có cái không khí rờn rợn của một cuộc
sống không thực. Có những khu vực ở đó, “chim
chỉ bay không kêu, măng nhuốm màu đỏ “, và “rất nhiều hồng ma, một loại cây ưa máu” (các tr.7, 13). Mà toàn bộ đời
sống sau chiến tranh khi được phản ánh vào tâm trí Kiên cũng vậy, nó có cái
không khí “ nửa nhà thương nhà đòn”,
như chữ dùng của tác giả.
Sự
tỉnh táo trong cái nhìn hiện thực của con người này sớm bị thách thức. Thường
xuyên, Kiên cảm thấy mình lạc lõng chơi vơi chẳng biết bấu víu vào đâu.
Như
vậy là Kiên đã thất bại đã đầu hàng, như nhiều nhân vật nông nổi khác? (Có lúc
anh đã tự nhủ: “mình chả trở lại thành người được đâu!”).
Song
đó chỉ là một phía. Trong hoàn cảnh nhiều điều trái ý, khao khát nhận thức của
Kiên – một khao khát chẳng những bao giờ cũng âm ỉ mà nhiều lúc lại còn bừng
sáng lên đột ngột - đã trở thành cái phao để anh bấu víu. Nó mang lại cho anh
lẽ sống. Kiên cảm thấy đời mình không còn ý nghĩa gì khác ngoài việc nghĩ về
chiến tranh và khôi phục lại bộ mặt thực của nó. Các hồi ức của Kiên không dừng
lại ở mức độ cảm giác mà vươn tới trình độ của một nhận thức. Mối quan hệ của
Kiên với chiến tranh được đặc trưng bởi tự ý thức sâu sắc của nhân vật về môi trường
mà mình có mặt. Sống vốn đã là để nhận thức. Với chiến tranh cũng vậy. Nơi
người ta thường cho rằng mỗi con người phải quên mình đi cho hành động, thực ra
lại là mảnh đất tốt cho những suy nghĩ, phản bác, thể nghiệm, kiểm tra, chấp
nhận...
Chỉ
cần có ít kinh nghiệm về tiểu thuyết viết về chiến tranh ở Việt Nam, người ta
đã thấy những nhận thức đã đến với Kiên như vừa phác họa là vượt lên trên sự
thông thường, là lạc lõng xa lạ, và đây là điều đã được nhiều nhà phê bình gọi
ra. Nó cũng là nguồn cơn của nhiều giận dữ mà các đồng đội hôm qua đã đổ lên
đầu tác giả. Tuy nhiên, chỉ cần gạt bỏ thành kiến và lòng tự ái bẩm sinh, những
người đã trải qua chiến tranh sẽ thấy con người Kiên là hoàn toàn bình thường.
Và nhận thức của anh về chiến tranh không phải là suy nghĩ theo nghĩa thông
thường, mà là sự vận động trong đầu óc thực thụ:
-- Nó mang màu sắc kinh nghiệm cụ thể,
kết quả của một sự tìm tòi cá nhân chứ không phải kinh nghiệm bày đàn, một thứ
chân lý do người ta học đòi nói leo, bị áp đặt và không có thẩm tra thể nghiệm.
-- Nó là cái gì người ta cố từ chối mà
không từ chối nổi, chứ không phải nông nổi bốc đồng, một thứ làm dáng, ra cái
điều suy nghĩ, ý nghĩ vừa đến trong
đầu đã kêu toáng lên dọa mình dọa người.
-- Nó (sự suy nghĩ ấy) lung linh tồn tại
như một cơ thể sống. Trong khi ở nhiều cuốn tiểu thuyết hậu chiến khác, chiến
tranh là đơn giản, chỉ có một nghĩa, dễ hiểu (để rồi dễ quên dễ chán) thì ở
đây, mặc dù đã sống với nó hết lòng, con người lại vẫn như là chưa hiểu cái gì
đã đến với mình trong những năm tháng
không bình thường ấy.
Nhận
thức ở đây đồng nghĩa với khám phá, khám phá không bao giờ ngừng. Trong cái sự
chật vật để đi đến nhận thức, con người như đã ở vào trình độ sống hiện đại,
chứ không phải loại người thiên về hành động và chỉ biết giải thích công việc
mình làm theo những công thức có sẵn.
Một
đối trọng đầy sức ám ảnh
Bên
cạnh Kiên thì trong tác phẩm, Phương là nhân vật nổi lên hơn hết. Trong cảm
giác chung về nỗi buồn mênh mông và như một thứ không khí phả vào từng trang
tác phẩm, không chỉ có nỗi buồn xé lòng của Kiên mà còn có nỗi buồn dai dẳng,
nỗi cay đắng nằm tận đáy lòng của Phương. Khi Kiên đi sâu vào nhận thức để giải
mã cuộc đời, cái đối tượng có sức ám ảnh với nhân vật không chỉ là chiến tranh
mà còn là Phương nữa.
Trong
các bài hát lẫn trong thơ ca lưu truyền ở Hà Nội trước 1975, người phụ nữ những
năm chiến tranh thường được hiện ra như những cô gái nhanh nhảu tháo vát, nếu
không đi thanh niên xung phong hoặc làm giao liên đưa bộ đội vào chiến trường
thì đó cũng là người con gái ở lại hậu phương chung thủy đảm đang, thay thế
chồng con cha anh trong những công việc đàn ông thường làm. Họ hết sức năng
động trong phạm vi những việc cụ thể, nhưng lại đơn giản sơ lược trong đời sống
tinh thần, và thường thiên về những giọt nước mắt sùi sụt, để rồi sau đó lại
đột ngột cứng cỏi một cách kỳ lạ đến mức khó hiểu, nếu không nói là giả tạo. Có
thể bảo đó là nét đặc biệt của người Việt nói chung, song ở phụ nữ, người ta
nhận ra những biểu hiện lý tưởng.
Trong
Nỗi buồn chiến tranh, Phương trước
tiên vượt lên mẫu người con gái thường gặp không chỉ trong các sang tác của dòng văn học chính thống đó để trở nên gần như một ngoại lệ. Hãy bắt đầu bằng hình ảnh Phương trước
ngày tiếng súng bắt đầu nổ. Đó không phải chỉ là hình ảnh của hòa bình hạnh
phúc mà ngay từ lúc ấy, Phương đã là con người của một nhận thức mới. Trong khi
Kiên tính chuyện ra đi, lao vào hành động, thì Phương lại có cái nôn nao khó
tả, nó là nỗi dự cảm trước một điều lớn lao đang xảy tới. Toàn bộ sự nhạy cảm
của Phương được huy động khiến cho người ta cảm thấy Phương như vượt hẳn lên so
với người bạn trai cùng tuổi. Phương nói ra những điều lớn lao một cách trực
tiếp như là lịch sử đã ứng vào miệng cô. Buổi tối bên bờ biển (trong đợt Phương
với Kiên đi nghỉ) có cái không khí huyền bí của một thời điểm mặc khải, khi con người chợt nhận ra điều bí mật. Từ
lúc chưa ai cảm thấy, thì hình như Phương đã cảm thấy chiến tranh tới gần. Và
nhất là những gì Phương phản ứng trước cái thực tại sắp tới đó thì thật bất ngờ
mà suy cho cùng lại thấy rất có lý. Ngay từ lúc này người ta đã thấy Phương sâu
sắc hơn Kiên. Phương không chỉ sống với cuộc đời trước mắt mà còn sống với
những ký ức từ thuở người Việt viết nên Chinh phụ ngâm và ru con bằng
những câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non”.
Nếu
sự chừng mực trong tiếp nhận chiến tranh ngay từ khi tiếng súng chưa nổ khiến
Phương có cái vẻ tiên cảm đến mức lạc lõng so với con người đương thời, thì cái
cách Phương hiểu về thời đại của mình càng sâu sắc lạ thường, một cách hiểu mới
mẻ đến mức người ta phải nghi ngờ.
Nói chung trong cách xử sự, Phương là con
người vượt ra ngoài thông lệ. Đoạn tác giả để cho Phương cảm thấy gần với cha
Kiên hơn là Kiên, Phương đứng bên cha Kiên trong cái lần ông họa sĩ này đốt
tranh… bị một số người cho là giả tạo. Nhưng lô-gich của Phương là vậy. Phương
và cha Kiên tự nhận là những kẻ lạc thời và lạc loài, song sự thật, họ là tinh
hoa của thời đại họ, là những con người của nhân văn nhân đạo, của vĩnh cửu.
Ngay
từ đầu, với trình độ hiểu biết của mình, Phương dường như đứng ngoài không gian
thời gian. Từ chỗ đứng đó Phương tìm ra nguồn sức mạnh tinh thần để hòa hợp với
xã hội. Kiểu nghĩ trí tuệ một cách bản năng như thế giúp Phương không
cứng nhắc trước cuộc đời. Việc Phương tự biến đổi theo hoàn cảnh mà chúng ta
thấy về sau như có thêm bảo đảm rằng con người tưởng như ngoại lệ này vẫn là
trường hợp bình thường. Trong Phương có cái phần mà nhiều người khác có, nhưng
lại lảng tránh.
Thích ứng để tồn tại
Trong
những lần bàn về cuốn sách của Bảo Ninh, một số người có nhắc tới nền văn học
xô - viết viết về chiến tranh, và những bộ phim làm theo cảm hứng của những tác
phẩm tinh hoa trong nền văn học đó, kiểu như Khi đàn sếu bay qua
hoặc Bài ca người lính. Trong những tác phẩm ấy, các nhân vật nữ hiện
lên như những con người sẵn lòng để người yêu ra đi, nhưng trong lòng xiết bao
đau đớn. Rồi ngay trong lòng hậu phương bản thân họ cũng bị vùi dập. Tình cảnh
đáng thương xảy ra theo nghĩa con người trở nên suy đồi mặc dầu họ không muốn.
Họ quay ra rượu chè chơi bời, tức chìm dần vào những lầm lạc. Yếu đuối tầm
thường tồn tại trong họ ngay bên cạnh cái cao đẹp, cái sang trọng. Song không
phải vì thế mà họ đáng trách: họ chỉ là nạn nhân của cuộc chiến.
Phương
trong Nỗi buồn chiến tranh có những nét gần với các nhân vật người Nga
nói trên.
Ở Phương
không có cái kiêu ngạo đầy ảo tưởng “ví đây đổi phận làm trai được - thì sự
anh hùng há bấy nhiêu” (thơ Hồ Xuân Hương).
Phương
cũng không phải mẫu người con gái cam chịu hoặc gồng mình hy sinh, lấy sự đau
khổ làm số phận.
Thế
thì đâu là nhân tố Việt Nam còn lại trong lòng người con gái kỳ lạ này?
Đó
là sự thích ứng.
Qua
miệng bà mẹ của Phương, tác giả sớm nhận xét ở Phương có xu thế vươn tới
sự hoàn hảo và mơ ước nhập thân vào cuộc sống (tr 238). Chỉ cần có chút
kinh nghiệm trường đời, người ta sẽ hiểu ngay là thật vô phúc cho người đàn bà
Việt Nam nào hội trong mình cùng một lúc cả hai phẩm chất trái ngược đó. Bởi sự
sống ở đây bao giờ cũng mang trong mình nó sự vô thường, sự dang dở. Muốn hoàn
thiện thì người ta trước sau không tránh khỏi gãy nát, sụp đổ. Cũng may mà ở
Phương, sự nhạy cảm vẫn mạnh hơn, và cô biết từ bỏ cái ao ước ban đầu kia để
giữ lấy cho mình phẩm chất thứ hai.
Sự
thích ứng đến với cô một cách tự nhiên. Thích ứng như sự phá bỏ nguyên tắc bất
chấp mọi điều kiện. Thích ứng cao hơn tự do, cao hơn lòng tự trọng. Thích ứng
với nghĩa có thể đầu hàng, có thể giả tạo, có thể từ bỏ chính mình, miễn sao
được sống.
Có
lẽ phải nói tới những gì lưu truyền trong máu huyết thì mới giải
thích được sự thích ứng của
Phương, một sự thích ứng ấy không
chỉ nhanh nhạy mà còn bền chắc và trở thành yếu tố chủ yếu làm nên sự sống của
nhân vật .
Đầu
tiên là sự thích ứng với những đổi thay bất ngờ và không kiểm soát nổi mà chiến tranh mang lại. Bước ngoặt này xảy ra ở
chỗ nhà ga Thanh Hóa. Phương theo tiễn Kiên. Lúc ấy cả hai từ Hà Nội vào và đã
trải qua một hành trình kinh khủng. Giờ họ rơi tõm vào cái ga bị ném bom. Trong
lúc lạc Kiên, Phương bị rơi vào tay một
thằng đểu. (Đây là một thứ tình thế phổ biến, chiến tranh ở đâu cũng có,
tuy rằng lại ít khi được nói tới trong các tiểu thuyết Việt Nam -- bởi đằng sau đó, người ta luôn luôn đọc ra mặt
trái của chiến tranh.)
So
với những xô đẩy mà Kiên phải chịu thì sự mất mát của Phương là lớn hơn nhiều.
Nhưng chúng ta hãy xem họ phản ứng như thế nào?
Sau
cơn lê lết đau đớn ê chề, Phương nhanh chóng hồi phục.Mặc dầu trong con mắt
người bạn trai, bề ngoài, cô vẫn cứ lộng lẫy “mềm mại, mịn màng”, tóm lại là
tuyệt mỹ (tr 269) song thực chất đã khác.
Với
Kiên, sự thích ứng của Phương là cả một tội lỗi. Phương của anh đã mang tội
phản bội, tội đầu hàng, “quỳ gối trước cái số phận mới mẻ” (tr 264) và chàng
thanh niên không bao giờ tha lỗi cho cô gái về cái tội để cho kẻ khác xúc phạm
tới cái tuyết sạch giá trong mà lại quên ngay được, và trở về với đời sống bình
thường dễ dàng như vậy.
Trong
khi Kiên đau đớn, Kiên bực tức, Kiên muốn người bạn gái phải tự xỉ vả, tự xử
tội mình, phải muốn chết đi vì xấu hổ, thì ngược trở lại, Phương coi tai họa
như một cái gì tự nhiên phải đến và không hề có mặc cảm phạm tội. Cô không bị
ràng buộc vào những quan niệm cổ lỗ như phần lớn con người đương thời. Với cô,
chung thủy hay phản bội lúc này chẳng có ý nghĩa gì cả.
Một
lý do huyền bí nào đó đã mách bảo nhà văn lấy đoạn này làm cao trào của truyện
và đưa nó vào phần kết, xem nó như cái chìa khóa để hiểu toàn bộ tâm lý nhân
vật. Đây là thời điểm đánh dấu sự vượt cao của Phương so với Kiên, không phải
chỉ trong ý nghĩ mà còn trong hành động. Từ đây, Phương như trở thành một con người khác. Phương như vừa tự phát
hiện ra một cái gì rất mạnh của mình mà trước đây, mình không thấy hết, và một
người như Kiên càng không thấy hết.
Nhớ
và quên đều có lý
Sau
khi đã có sự thích ứng thứ nhất – thích ứng với chiến tranh – thì sự thích ứng
thứ hai ở Phương - thích ứng với hoàn cảnh hậu chiến – sẽ đến một cách tự
nhiên, mặc dầu nó xảy ra một thời gian dài và diễn biến với nhiều cung bậc hơn.
Một
điều đối lập ai cũng thấy khi so sánh Phương và Kiên sau chiến tranh: trong khi
Kiên đào bới vào ký ức và tin tưởng ở sứ mệnh người tiên tri của quá khứ mà
mình tự nguyện đảm nhận thì Phương gần như có thái độ ngược lại.
Sơ
đồ suy nghĩ của Kiên bao gồm mấy bước. Ra đi trong náo nức; sớm thất vọng khi
nhập cuộc và bắt đầu cảm thấy cần tìm hiểu sự thực về chiến tranh; đến thời hòa
bình, cái định hướng suy nghĩ này của anh càng trở nên rõ rệt. Trong thâm tâm,
Kiên mang máng cảm thấy rằng đẻ mình chìm vào mạch nghĩ như vậy là có lỗi. Giá
kể có thể giống như mọi người, buông mình trong lười biếng, lẫn mình đi giữa
đám đông, thỏa thiệp với chung quanh thì thật tiện. Nhưng bản chất con người
buộc Kiên phải làm khác. Có một cái còn quan trọng hơn sự chung sống hòa hợp
với mọi người chung quanh, thậm chí cao hơn hạnh phúc theo nghĩa thông thường,
đó là tìm ra sự thực đời sống. Tính chất nhất thiết của quá trình nhận thức
khiến cho Kiên có cái chất mà các nhà nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết
thường nhấn mạnh: sẵn sàng chống lại hoàn cảnh; đi đến cùng trên con đường đã
chọn.
Theo
cách hiểu thông thường, thì rượu chỉ làm cho người ta say sưa quên lãng. Đằng
này Kiên lúc nào cũng khát rượu, vậy mà anh rất tỉnh, càng rượu càng tỉnh, rượu
giúp anh sáng suốt tập trung sức lực vào suy nghĩ. “Chỉ có người nào biết bỏ qua những cái lặt vặt thì mới nhận ra được cái
chủ yếu của đời sống” — cái nghịch lý ấy ở đây lại được ứng nghiệm.
Nhìn
vào những cuộc phiêu lưu trong văn học thế kỷ XX, nhà nghiên cứu văn học Pháp M.
Alberes có một phát hiện khá thú vị. Đại ý ông bảo rằng nay là lúc người ta
không đòi hỏi nghệ thuật phải đi vào khám phá ý nghĩa bí mật của sự vật mà nó, nghệ thuật, chỉ được dùng như một phương
tiện giúp con người tự vấn và thách đố lại mọi ảo tưởng cũng như sự lừa dối.
Kiên sẽ phải viết tiểu thuyết là vì như thế.
Còn
Phương. Khi nói thẳng khi quanh co, song bao giờ Phương cũng kiên trì một thái
độ: nếu mọi chuyện hôm qua là không thể giải thích thì và cách tốt nhất để sống là hãy quên hết
chuyện cũ. Khi thấy không thể thuyết phục Kiên chấp nhận suy nghĩ của mình, giống
như một kết cục tất yếu, Phương đã bỏ đi trong sự nhớ tiếc khôn nguôi của Kiên.
Đi như là một sự lãng quên tuyệt đối.
Chúng
ta nên hiểu sự kiện này như thế nào? Trước hết, với Phương đây là bước đi hợp
với logic. Nếu Kiên là con người của tình thế trước mắt thì Phương là con người
của một cuộc đời dài rộng hơn. Kiên là cái duy lý mà chúng ta vốn thiếu trong
khi Phương là cái duy cảm mà người Việt có thừa. Kiên đầy hào hứng trong việc
miên man sống với ký ức vì thật ra Kiên vẫn là mình, vẫn giữ được mình trong
chiến tranh. Còn Phương, sau cái bề ngoài nhởn nhơ và cái vẻ đẹp nguyên vẹn
kia, thật ra cái cô Phương “bậc thày thích ứng” kia đã không còn là mình nữa.
Xét ở một phương diện nào đó, nhờ thích ứng
mà Phương vẫn tồn tại. Nhưng xét trên một phương
diện khác, con người Phương hôm nay không phải là Phương hôm qua nữa Phương không còn sống với đúng nghĩa của sự sống.
Bề ngoài là một tính cách lạc lõng so với
số đông phụ nữ Việt Nam “anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang” mà báo chí thời
chiến vẫn tuyên truyền và được xã hội mặc nhiên coi là có thật song Phương là
tập đại thành của tính cách cố hữu mà người Việt nào cũng mang sẵn trong máu:
sự thích nghi, thích nghi đến đánh mất mình đến đầu hàng hoàn cảnh.
Trong khi đó, Kiên lại phiêu lưu giống như
anh chàng hiệp sĩ Tây Ban Nha mà người Việt vừa xa lạ vừa thích thú -- Đông Ki
Sốt.
Kiên chẳng có gì là Việt Nam cả nhưng nhờ thế Kiên gần với nhân loại hơn.
Song
hành như những thách thức
Chỉ cần đứng tách ra một chút để chiêm
nghiệm đời sống tinh thần của xã hội những năm chiến tranh, thì người ta phải
nhận là qua việc dựng lại diễn biến của nhân vật Phương, Nỗi buồn chiến
tranh có thêm một tầng ý nghĩa mới. Phương với tác giả không phải chỉ là
chỉ một cách để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ như nhiều cây bút phê bình đã
viết. Nhìn lại, trong cả cuốn tiểu thuyết, ta thấy hình ảnh Phương làm nên một
cái nền vững chãi cho Kiên.
Bên cạnh Kiên, Phương là một kẻ đồng hành để so
sánh. Một kẻ đối thoại quyến rũ. Và một cách nhìn đời khác, một thách thức. Lúc
gần gũi và thông cảm với nhau, Phương là cái phần cao đẹp mà Kiên không vươn
tới.
Lúc bị cuộc đời hành hạ, Phương là kẻ biết mau mắn chấp nhận để tồn tại,
có cách nghĩ thực tế hơn hẳn so với nỗi đau đớn khôn nguôi của Kiên. Với việc
bỏ đi xa để lại cho Kiên niềm nuối tiếc, Phương trở thành tượng trưng cho cuộc
đời gần gũi đấy mà bí ẩn đấy, cái cuộc đời vừa
tẻ nhạt chán chường vừa đầy sức quyến rũ mà trong một phút xuất thần,
Lưu Quang Vũ đã kêu lên như một lời thú nhận:
Có
ai nói cho lòng ta hiểu nổi
Về
cuộc đời ghê gớm ta yêu
Tình thế Phương thời hậu chiến không được
nói nhiều, song cái lý riêng của tình thế đó thì đã rõ. Nhân vật tồn tại như
một biểu hiện của cái mệt mỏi buông xuôi thấm vào đám đông sau chiến tranh. Sau
những năm tháng bất thường, nó xoay con người đến nát tươm, nó làm cho con
người trở thành méo mó kỳ dị…, người ta vẫn muốn sớm quay về cuộc đời bình
thường. Nhất là sau một cuộc chiến quá sức, biết mình không thể hoàn lương trở
lại, người ta muốn tạm đắp điếm cho xong, muốn tìm một sự bình yên cần kíp cho
cuộc sống trước mắt, dù biết là nó giả tạo. Theo mạch thời gian, thấy càng về
sau Phương càng mất hình mất dạng, càng như tan biến đi, trong khi đó Kiên càng
kiên trì hơn với những câu hỏi ám ảnh, càng trở thành chính mình. Phương là sự
bình ổn với bất cứ giá nào, bình ổn để nhắm mắt sống cho qua cái hiện sinh
ngoài tầm kiểm soát; ngược lại Kiên –
trong hành động nhận thức của mình - lại nổi bật lên như là yếu tố hư vô mà
thách thức và do đó thúc đẩy cuộc đời đi tới.
Việc miêu tả quá trình song hành giữa hai
nhân vật có sự bổ sung cho nhau như Phương và Kiên khiến cho hình ảnh con người
trong Nỗi buồn chiến tranh như được gợi mở với nhiều chiều kích rộng
rãi. Trong khi ghi nhận hai nhân tố có thực trong đời sống, đồng thời tác phẩm
còn tồn tại như lời mời gọi cuộc đối thoại mà lẽ ra xã hội hậu chiến nên đón
nhận.
Dù những đề xuất ấy không được chính thức hưởng ứng, song trong đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam hậu chiến, các nhân vật như Kiên như Phương vẫn
hiện diện, và đấy là cái làm nên lý do trường tồn của tác phẩm. Không mấy khi, nhà
văn Việt Nam xây dựng được những nhân vật có ý nghĩa thách thức như thế.
2006 - 07