Lần trước tôi đã giới thiệu cuốn sách này cụ Đào
Lần này xin lần lượt đưa lại các chương sách
Vì sách sưu tầm đã lâu,
khi ấy tôi không có điều kiện chụp lại bản gốc
mà chỉ có bản photocopy rồi giữ trong đống tài liệu.
Hôm nay, khi nhờ được người đánh máy lại
bản đã chụp ở thư viện Khoa học xã hội
thì lại không đủ sức khỏe sửa chữa hết các lỗi đánh máy
và đưa ra những ghi chú cần thiết,
mong được các bạn tha thứ.
mong được các bạn tha thứ.
Chỉ xin nói thêm là cách viết hoa và cách viết tên riêng ở đây
BỘ BIÊN TẬP
TỦ SÁCH GIÁO VIÊN
__________
Ô. ĐÀO DUY ANH–Giáo sư TẠ QUANG BỬU Bác sĩ VŨ VĂN CẨN – NGÔ QUANG CHÂU NGUYỄN ĐỨC CHÍNH – TẠ MỸ DUẬT. NGUYỄN HỮU ĐANG – TRẦN VĂN GIÁP HOÀI THANH – VŨ ĐÌNH HÒE – Tiến sĩ NGUYỄN VĂN HUYÊN – PHAN KHÔI .
Thạc sĩ NGỤY NHƯ KON TUM – TRẦN HUY LIỆU – ĐẶNG THÁI MAI – MINH TRANH. Bác sĩ NGUYỄN XUÂN NGUYÊN – NGUYỄN ĐÌNH THI – NGÔ TẤT TỐ - Bác sĩ TRẦN HỮU TƯỚC – TRƯƠNG TỬU – TÔ NGỌC VÂN–NGUYỄN XIỂN–NGHIÊM XUÂN YÊM
___________
Tổng thư ký : THÀNH THẾ VỸ
Đào Duy Anh
VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ ĐẠI CƯƠNG
1950
NHA TỔNG GIÁM ĐỐC B. D. H. Y.
XUẤT BẢN
Cùng một tác giả
(Sách mới)
________
« VIỆT NAM LỊCH SỬ GIÁO TRÌNH (4 quyển)
Phòng chính trị Liên khu IV xuất bản
« VIỆT NAM SỬ CƯƠNG (2 quyển)
Nha Tổng Giám Đốc B. D. H. V. xuất bản
« VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ ĐẠI CƯƠNG
Nha Tổng Giám Đốc B. D. H. V. xuất bản.
« VIỆT NAM SỬ KHẢO – Tập I
« VIỆT NAM SỬ KHẢO – Tập II
« NHỮNG THỜI KỲ LỚN TRONG LỊCH SỬ V. N.
(chưa xuất bản)
Thay tựa
Quyển VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ ĐẠI CƯƠNG này không phải là bản tóm tắt của quyển VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG mà chúng tôi đã viết và xuất bản hồi năm 1938. Kể về nội dung, quyển trước chỉ là một mớ tài liệu bề bộn chúng tôi đã sưu tập vội vàng, theo một trật tự thuận tiện. Tuy gọi là sử, nhưng vì tài liệu thiếu sót nhiều, chúng tôi không thể chép theo diên cách: về bố cục thì chúng tôi đã phải chia tổng thể văn hóa ra từng môn bộ và theo phương pháp phân tích để trần thuật về mỗi môn bộ.
Một tác phẩm sơ sài, nhiều khuyết điểm như thế, không thể nào đem toát yếu lại được. Tóm tắt hay trích lược, thì nó chẳng còn giá trị gì, đến cái giá trị sưu tập tài liệu nó cũng không còn nữa.
Bởi thế nên khi viết quyển sách nhỏ này để đáp lại sự yêu cầu của Nha B. D. H. V., chúng tôi phải dùng phương pháp khác. Về khuôn khổ quyển sách chật hẹp quá nên chúng tôi không thể dùng những phương pháp phân tích mà đi vào chi tiết, cho nên về bố cục, chúng tôi đã chia ra thời kỳ để trần thuật theo con đường diên cách của tổng thể văn hóa; ở mỗi thời kỳ, thì chúng tôi lại theo lối phân tích mà thuật riêng về các bộ môn lớn. Phương pháp dùng trong quyển sách này có thể xem là trái ngược với phương pháp dùng trong quyển sách trước. Nếu ở quyển trước, chúng tôi đã phân tích nhiều hơn tổng hợp, thì có thể nói rằng ở quyển này, chúng tôi đã tổng hợp nhiều hơn là phân tích.
*
* *
Chúng tôi xin bày tỏ qua loa cái ý niệm VĂN HÓA của chúng tôi.
VĂN HÓA là “thành tích của sự gắng sức của loài người do dã man mà đến văn minh”, hay nói rộng ra là để do tình trạng CON VẬT mà tiến lên tình trạng CON NGƯỜI. Khởi điểm của văn hóa là ở sự tranh đấu của loài người nguyên thủy đối với hoàn cảnh tự nhiên ác liệt để thay đổi những điều kiện sinh hoạt mà hoàn cảnh tự nhiên buộc cho mình – con vật chỉ biết thích ứng với hoàn cảnh chứ không sửa đổi được hoàn cảnh. Vậy văn hóa là một sự sáng tạo của loài người, là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo để thoát khỏi sự áp bách của tự nhiên.
Nhưng từ khi xã hội loài người bắt đầu phân hóa thành giai cấp thì văn hóa vốn là thành tích và lợi khí của sự tranh đấu của người đối với tự nhiên, lại chuyển thành cả cái thành tích và lợi khí của sự tranh đấu của người đối với người – nhân thế mà sinh ra văn hóa giai cấp.
Vì vậy, cho nên trong tổng thể văn hóa do loài người sáng tạo từ xưa đến nay, người ta nhận thấy một phần gồm những giá trị chung của loài người đại khái là những sở đắc về kỹ thuật và khoa học biểu hiện cái dục vọng chinh phục tự nhiên, cùng những lý tưởng, những quan niệm tiến thủ tranh đấu biểu hiện sự yêu cầu giải phóng của con người; một phần gồm những giá trị của một giai cấp mạnh dùng để trấn áp toàn thể dân chúng để giữ vững địa vị chi phối của họ - tức thường tọi là văn hóa giai cấp.
Văn hóa là một thể liên tục, không phải chỉ gồm có giá trị mới sáng lập mà lại gồm cả những giá trị cũ duy trì. Những giá trị không được duy trì, không được tái tạo là mất hẳn cho văn hóa, mà những giá trị cũ được duy trì lại chiếm một phần rất lớn trong tổng thể văn hóa.
Tách ra mà nói thì chúng ta thấy văn hóa biểu hiện trong các phương diện sau này :
Kỹ thuật, phong tục, tập quán, chế độ, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, giáo dục v.v.
Văn hóa của thế giới ngày nay là thành tích chung do tất cả loài người sáng tạo và duy trì.
Nhưng với sự phân công càng ngày càng tinh tế, ở trong xã hội đã dần dần xuất hiện một hạng người chuyên môn về việc sáng tạo và duy trì văn hóa, người ta thường gọi cung là giới trí thức. Đồng thời với sự chuyên môn hóa ấy, cái quan niệm về sự hoạt động văn hóa cũng đã thu hẹp lại. Những hình thức sáng tạo văn hóa cao và sâu sắc nhất là nghệ thuật (art) và học thuật (science) ; hình thức duy trì văn hóa quan trọng nhất là giáo hóa hay giáo dục. Vậy trong cái ý niệm văn hóa ngày nay chúng ta nên phân biệt ba thành phần trọng yếu là : Nghệ thuật, học thuật và giáo dục.
ĐÀO DUY ANH.
ĐÀO DUY ANH.
CHƯƠNG I
Thời kỳ Lạc Việt
I. – NGUỒN GỐC TRUYỀN KỲ
Theo truyền thuyết và sử cũ thì tổ tiên đầu của dân tộc Việt Nam là Kinh dương vương là dòng dõi Thần Nông. Kinh dương vương được phong ở nước Xích quỷ ở phương Nam, lấy con gái Thần Long là vua hồ Động đình, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi cha, hiệu là Lạc long quân.
Lạc long quân dạy dân cách ăn mặc và việc cày cấy. Một hôm vua phương Bắc là Đế Lai đem con gái là Âu cơ đi chơi phương Nam. Nhân thế, Lạc long quân kết duyên với Âu cơ sinh ra một cái bọc đựng trăm cái trứng, nở thành trăm người con trai.
Cách ít lâu Long quân nói với Âu cơ rằng : Chúng ta, một người là giống Rồng, một người là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, không thể ở với nhau lâu được. Rồi hai người chia con thành hai phần, năm chục người theo cha về biển, năm chục người theo mẹ về núi, chia nhau thống trị các xứ. Âu cơ cùng các con đóng ở Phong sơn, người con trưởng được tôn làm chúa gọi là Hùng vương.
Hùng vương trị nước gọi là Văn lang. Đất nước phía Đông giáp Nam hải, phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc giáp hồ Động đình, phía Nam giáp nước Hồ tôn. Nước Văn lang chia làm 15 bộ, Hùng vương sai các con chia trị các bộ. Buổi đầu vật dụng của nhân dân chưa đủ, nên phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy bột cây quang lang làm cơm, lấy rễ gừng làm muối. Dân đốt rừng làm rẫy để trồng lúa nếp, lấy ống tre để nấu cơm lam ; gác cây làm nhà, để tránh hùm sói ; cắt ngắn tóc để tiện đi lại trong rừng rú ; con mới sinh thì lấy lá chuối mà lót ; trai gái lấy nhau thì chưa dùng trầu cau, lấy phong muối làm lễ đầu, rồi sau đem trâu dê để thành lễ cưới.
Hùng vương đóng đô ở Phong châu (nay là miền các tỉnh Vĩnh yên, Phúc yên), đời đời cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng vương.
Đến đời Hùng vương thứ 18, có Thục Phán là con cháu vua nước Thục, nhiều lần đem binh đánh Hùng vương. Cuối cùng Hùng vương bại trận, Phán chiếm được nước Văn lang đổi làm nước Âu lạc, tự xưng là An dương vương.
An dương vương xây thành để đóng đô, nhưng thành xây vừa xong thì đổ. An dương vương phải lập đàn lễ trời đất thần kỳ, và nhờ thần Kim quy giúp phép mới xây xong. Thành rộng nghìn trượng, quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa thành. Thần Kim quy lại cho một cái móng chân để làm nẫy nỏ thiêng mà giữ thành.
Bấy giờ, Triệu Đà muốn thôn tính nước Âu lạc, đem binh đánh An dương vương mấy lần không được, vì An dương vương có nỏ thần phù trợ. Đà bèn giả làm hòa hiếu, cho con là Trọng Thủy sang làm rể An dương vương. Trọng Thủy dụ vợ là Mị châu cho xem lén nỏ thần, lấy trộm nẫy nỏ móng rùa, rồi thác cớ trở về Bắc thăm cha. Biết nỏ thần đã bị phá, Triệu Đà phát binh đi đánh nước Âu lạc. An dương vương đem con chạy trốn rồi nhảy xuống biển tự tận. Triệu Đà chinh phục được nước Âu lạc, chia đặt hai quận Giao chỉ và Cửu chân.
*
* *
Tìm ý nghĩa của những truyện cổ tích ấy, chúng ta có thể đoán rằng sự tích Kinh dương vương là ghi nhớ những tổ tiên xa của giống Việt tộc ở thời kỳ họ còn ở rải rác trong lưu vực sông Dương tử, ở miền châu Kinh và châu Dương. Sự tích Lạc long quân cùng chuyện con Rồng cháu Tiên có lẽ có quan hệ với cái tín ngưỡng vật tổ của người Việt tộc xưa nhận giao long làm vật tổ, và cái phong tục cạo tóc và xăm mình thành hình trạng giao long để khi lặn lội trong nước mà đánh cá khỏi bị giao long làm hại. Sự tích Âu cơ sinh trăm con trai và chia con làm hai, phần ở biển và ở núi có lẽ là có quan hệ với sự phân tán của Việt tộc thành các bộ lạc Bách Việt ở miền Lĩnh Nam. Còn sự tích Hùng vương và nước Văn lang, có lẽ là ghi nhớ các thế hệ tư tưởng của người Lạc việt và trạng thái sinh hoạt sơ khai của tổ tiên ta thời thai cổ. Những sự tích ấy tuy là truyền thuyết hoang đường, song nó vốn cũng có nguồn gốc ở những sự thực xa xôi đã bị thời gian mai một, nếu tìm ra được mối liên quan ấy tức sẽ hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó.
II. – NGƯỜI LẠC VIỆT
Tổ tiên chúng ta xuất hiện trong lịch sử ở trên miền đất Bắc kỳ [1] vào khoảng hai ba thế kỷ trước Kỷ nguyên với danh hiệu Lạc Việt. Nhưng giống người Lạc Việt ấy có phải là dân thổ trước ở miền đất ấy từ đời viễn cổ, hay là tự đâu mà di cư đến ? Đó là cả vấn đề nguồn gốc của dân tộc Việt nam, trong phạm vi quyển sách nhỏ này không thể đem bàn tường tận được, chúng tôi chỉ bày tỏ những đại cương để do đó mà biết rằng người Lạc Việt đã xuất hiện ở miền đất ấy thế nào.
Theo ức thuyết cho người Lạc Việt ở miền Bắc kỳ là có quan hệ với người Việt ở Phúc kiến, và theo những điều ghi chép vụn vặt trong các thư tịch xưa, chúng ta có thể đoán rằng có lẽ ở miền bờ biển Phúc kiến, từ xưa đã có một nhóm Việt tộc chuyên làm nghề đánh cá và vượt biển. Họ thường dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm (giống lối mảng làm bằng cây bương mà dân chài lưới, ở miền Sầm sơn tỉnh Thanh hóa, dùng để ra biển) để hàng năm, theo gió mùa, nhân gió bấc họ vượt biển đến các miền duyên hải ở phương Nam, đại khái là miền Hải nam miền hạ lưu sông Hồng hà và sông Mã, có lẽ những người táo bạo vượt đến cả Nam dương quần đảo nữa, rồi đến tiết gió nồm, họ lại vượt trở về nơi căn cứ. Có lẽ sau nhiều cuộc vượt biển những người Việt ấy để lại tại miền Bắc Việt nam một ít nhóm thực dân rải rác, rồi dần dần những nhóm thực dân ấy một ngày một đông, đến sau khi nước Việt bị nước Sở tiêu diệt (333 tr. k. ng.) thì có lẽ họ kéo nhau cả bộ lạc xuống ở miền hạ lưu sông Hồng hà và sông Mã mà xưa nay họ vẫn biết là miền đất rộng rãi phì nhiêu.
Trong những cuộc vượt biển hàng năm của nhóm Việt ..........., họ thường tự sánh họ với một giống chim hậu điểu mà hàng năm đến mùa lạnh tức mùa gió bấc, họ thường thấy cùng dời miền bờ biển Giang nam mà bay về phương Nam, đồng thời với cuộc xuất dương của họ, để đến mùa nóng là mùa gió nồm, các chim ấy cũng trở lại miền Giang nam đồng thời với cuộc hồi hương của họ. Vì thế mà dần dần trong tâm trí họ phát sinh ra một quan niệm tô tem mới khiến họ nhận giống chim Lạc ấy (chim Lạc là giống chim hậu điểu về loài ngỗng trời, ở miền Giang nam) làm vật tổ, rồi cái tên vật tổ trở thành tên của thị tộc, cho nên người ta gọi nhóm Việt tộc ấy là Lạc việt (người Việt họ Lạc). Những khi họ vượt biển, có lẽ họ thường giả trang mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình để trá hình thành Vật tổ, và đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu của Vật tổ, tất cả những hành động ấy là cốt để cầu vật tổ hộ vệ cho họ được an toàn giữa biền khơi sóng gió bất kỳ. Cái hình thuyền với những thủy thủ kỳ hình quái trạng chạm trên tang trống đồng Ngọc lũ (hiện trữ ở Viện Quốc gia bảo tàng ở Hà nội) mà các nhà khảo cổ học Pháp L.Finot và Goloubew cho là có ý nghĩa tô tem, chính là biểu hiện của các thuyền đã từng chở người Lạc Việt từ miền Phúc kiến xuống miền Bắc kỳ, cũng như những hình chim đậu và chim bay chạm ở mặt trống đồng ấy, chính là hình con chim vật tổ đến đất Bắc kỳ họ vẫn giữ tên thị tộc cũ là Lạc, và chính bằng tên Lạc Việt mà từ nay các sử sách của Trung hoa gọi họ.
Sự gặp gỡ giữa người Việt tộc và người Anh-đô-nê thổ trước tại miền Bắc Việt nam đã diễn ra bằng cách nào, có gây nên những cuộc xung đột kịch liệt không ? Điều ấy chúng ta chưa có thể biết đích xác được. Như chúng tôi đã ước đoán ở trên, trước khi người Lạc Việt kéo cả bộ tộc đến miền Bắc Việt nam, thì trải bao nhiêu đời, họ đã qua lại và di thực ngấm ngầm đến đó. Có lẽ trong khoảng thời gian lâu ấy, họ đã chiếm ở được những nơi trọng yếu trong miền hạ lưu và duyên hải mà người Anh-đô-nê cũ, vì văn hóa thấp hơn, đã phải lui nhường (nên biết rằng vịnh Bắc kỳ lúc bấy giờ có lẽ ăn lên đến gần Hà nội ngày nay). Đến khi người Lạc Việt di cư đông đúc đến thì họ đã có sẵn những nơi căn cứ cũ, từ đó họ man diên ra các vùng xung quanh rất dễ dàng. Đối với dân thổ trước thì bọn người mới đến phần nhiều dùng cách xâm lăng ngấm ngầm, nhưng có lẽ thỉnh thoảng cũng có những cuộc xô xát tàn nhẫn, người thổ trước tất cũng có phản kháng kịch liệt. Nhưng nếu điều chúng tôi ước đoán rằng người Lạc Việt và người Anh-đô-nê không phải là hai chủng tộc khác nhau hẳn [2] là đúng, thì có lẽ sự tiếp xúc của hai nhánh bà con xa ấy không đến nỗi gay go lắm. Huống chi lúc gặp nhau thì phương thức sinh nhai của hai bên đều làm nghề chài lưới lại không khác gì nhau. Có lẽ vì thế mà một phần đông dân thổ trước, đã dần dần bị người mới đến đồng hóa dễ dàng.
Về phương diện nhân chủng thì chúng ta chưa có thể biết được con người Lạc Việt mà thư tịch Trung hoa cho xuất hiện ở đất này vào khoảng thế kỷ thứ III tr. k. ng. là gồm bao nhiêu yếu tố Lạc Việt xưa phối hợp với bao nhiêu yếu tố Anh-đô-nê thổ trước. Nhưng lấy lẽ rằng tổ tiên người Lạc Việt là người Việt tộc ở lưu vực sông Dương tử, vì tiếp xúc với người Hán tộc đã mấy mươi thế kỷ thì tất cũng có chịu ảnh hưởng huyết thống của người Hán tộc ít nhiều, chúng ta có thể đoán rằng người Lạc Việt khi mới đến Bắc kỳ cũng đã mang trong cơ thể ít nhiều yếu tố Mông cổ. Tất nhiên người Lạc Việt sinh sôi nảy nở ở đây cũng có mang một ít yếu tố Mông cổ ở trên cái bản chất Anh-đô-nê xưa.
III. – VĂN HÓA LẠC VIỆT
Về phương diện văn hóa người Lạc Việt sau khi định cư ở miền Bắc Việt nam đã gây thành một cuộc cách mệnh sâu xa rộng rãi mà khảo cổ học và tiền sử học đã bày tỏ cho chúng ta những chứng cứ hiển nhiên. Đem so sánh những đồ dùng bằng đất và bằng đá người ta đã tìm thấy bên cạnh những hài cốt người Anh-đô-nê, với những đồ đồng của người Lạc Việt người ta đã tìm được ở lưu vực sông Hồng hà và sông Mã thì người ta thấy chúng thuộc về hai hệ thống văn hóa khác nhau.
Những đồ đá hiếm hoi mà người ta đã đào được lẫn với đồ đồng ở Đông sơn là những đồ nhỏ nhắn xinh xắn khác hẳn với những đồ đá to thô của người Anh-đô-nê, có lẽ đó là những di tích của một thứ văn hóa thất bại đã suy đồi mà những người bị đồng hóa theo giống Lạc Việt chỉ còn giữ làm đồ tế tự. Đến như đồ gốm đào được ở Đông sơn thì toàn là đồ thuộc về hậu kỳ của văn hóa đồ đá mới, mà hình thức và kỹ thuật thì cũng khác hẳn với hình thức và kỹ thuật thô sơ hơn của người Anh-đô-nê. Còn những đồ đồng là đồ tìm được nhiều nhất, so với những đồ đồng thô sơ mà thỉnh thoảng người ta tìm được ở trong địa bàn của người Anh-đô-nê thì khác nhau quá sức, không thể nhận thấy có một liên lạc gì giữa hai kỹ thuật ấy.
Một cuộc cách mệnh về kỹ thuật lớn lao như thế, tất nhiên cũng kéo luôn thành những cuộc cách mệnh về phương thức sinh hoạt, hình thái xã hội, hình thái chính trị và các hình thái ý thức. Song sự thiếu thốn tài liệu nghiên cứu không thể cho chúng ta biết rõ chân tướng của những sự biến chuyển ấy. Ở đây chúng tôi chỉ xin bày tỏ những chi tiết mà những di vật hiếm hoi và những tài liệu rải rác trong thư tịch có thể cho chúng ta xét đoán đại khái được.
Sự phát hiện những đồ đồng ở Đông sơn đã giúp cho chúng ta những tài liệu rất quý để hiểu biết thêm văn hóa của người Lạc Việt. Sự phát hiện ấy đã làm chấn động cả giới khảo cổ học, vì nhờ đó mà người ta biết được một hình thức văn hóa mới mà các nhà khảo cổ học gọi là văn hóa Đông sơn. Nhà khảo cổ học Geldern cho rằng theo những đồ đồng đào được ở miền Nam Trung hoa và ở miền Bắc Việt nam thì nghệ thuật mà người ta gọi là nghệ thuật Đông sơn là kết quả của ảnh hưởng nghệ thuật đồ đồng của Tây phương, nghệ thuật ấy trải qua miền Trung Á, qua Tây bộ tỉnh Tứ xuyên và tỉnh Vân nam, rồi xuống Bắc kỳ, trong khi một nhánh khác của nó lấn vào miền Nam Trung hoa, rồi phối hợp với nghệ thuật thuở trước mà sinh ra nghệ thuật Chiến quốc ở miền Giang Hoài. Nhà khảo cổ học Goloubew-L.Finot cũng theo ý kiến ấy – thì lại cho rằng kỹ thuật đồ đồng ở Đông sơn là do kỹ thuật đồ đất của người Anh-đô-nê thuở trước chịu ảnh hưởng của kỹ nghệ đúc đồng do người Hán tộc dạy cho sau khi họ bị quân nhà Trần chinh phục. Ở đây chúng tôi không thể biện bác hai thuyết ấy, vì sẽ phải đi vào những chi tiết phức tạp rườm rà. Chúng tôi chỉ xin nói rằng những nhà khảo cổ học Tây phương mỗi người chỉ đứng trong phạm vi nghiên cứu chuyên môn riêng của mình, không chịu khó tìm đến những tài liệu chắc chắn về sử học – họ chỉ bằng vào những thuyết lưu hành – nên ý kiến mỗi người đều có tính chất thiên lệch. Theo chúng tôi suy cứu thì kỹ thuật đồ đồng, người Ngô Việt xưa đã biết đến một trình độ rất cao, mà miền Ngô Việt chính là Tổ Quốc của cái nghệ thuật đồ đồng mà ảnh hưởng về phương Bắc đã sinh ra nghệ thuật Giang Hoài, ảnh hưởng về phương Nam đã sinh ra nghệ thuật Đông sơn. Có lẽ trong thời đại Ngô Việt, người Lạc Việt ở miền Phúc Kiến đã biết kỹ thuật đồ đồng ấy rồi ; đến sau khi nước Việt bị diệt, có lẽ người Lạc Việt di cư đến miền lưu vực sông Nhị và sông Mã, đã làm môi giới để du nhập vào miền Nam cái kỹ thuật đồ đồng có tiếng của người Việt. Về phương diện kỹ thuật thì hiện trạng của khảo cổ học chưa cho chúng ta thấy rõ chỗ giống nhau của đồ đồng ở Đông sơn và đồ đồng ở Chiết Giang, nhưng về phương diện nghệ thuật thì người ta thấy mối liên lạc mật thiết giữa hai nghệ thuật đồ đồng ấy. Song từ khi truyền đến miền Bắc kỳ thì kỹ thuật đồ đồng có lẽ đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của văn hóa người Anh-đô-nê thổ trước, và nhờ được điều kiện sinh hoạt dễ dàng của người Lạc Việt ở một nơi phì nhiêu phong phú mà phát đạt đến một trình độ rất cao. Sản phẩm đặc biệt nhất của kỹ thuật đồ đồng ấy là thứ trống đồng lớn mà cái trống Ngọc lũ hiện tàng trữ ở viện Quốc gia bảo tàng ở Hà nội là đại biểu. Trống đồng mà sau này Mã Viện lấy ở đất Lạc Việt để đem về Trung quốc đúc làm tượng ngựa đồng, chính là thứ trống ấy. Sách Lâm ấp ký (dẫn ở Thủy kinh chú) lại chép rằng người Lạc Việt còn đúc cả thuyền bằng đồng.
Xem xét những đồ dùng bằng đồng đào được đó, chúng ta có thể suy biết được ít nhiều về trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Lạc Việt. Trong một bài khảo cứu quan trọng đề là Thời đại đồ đồng ở Bắc kỳ và bắc Pháp Trung Kỳ (Lâge du bronze dans le Tonkin et le Nord-Annam, B. E. F. E. O. – XXIX) nhà bác học Goloubew đã mô tả kỹ càng mỗi cái đồ ấy, ở đây chúng tôi không thể chép thuật lại hết, chỉ xin nêu ra ít nhiều điều quan trọng mà thôi.
Tại Đông sơn người ta đào được mấy cái đồ bằng đồng ngờ là dùng để đào đất. người ta còn tìm thấy những lưỡi cày, lưỡi cuốc nhỏ bằng đồng và đá. Theo sách Giao châu ngoại vực ký (dẫn ở Thủy kinh chú) và sách Quảng châu ký (dẫn ở Sử ký sách ẩn) thì người Lạc Việt có ruộng gọi là lạc điền, thường theo nước thủy triều lên xuống mà làm. Điều ấy tỏ rằng người Lạc Việt đã biết làm canh nông đến một trình độ kha khá, đã cao hơn lối làm rẫy của người Mọi ngày nay. Có lẽ là nhờ tính chất phì nhiêu (sách xưa thường chép rằng đất Giao chỉ, tức là địa bàn của người Lạc Việt, là đất phì nhiêu) của đất đai ở địa bàn mới và nhờ sự dùng nông cụ bằng đồng mà nghề canh nông của người Lạc Việt được tiến bộ mau.
Một phần lớn những đồ đồng ấy là đồ vũ khí: búa, rìu, mũi thương, mũi mác, mũi tên, dao găm, cùng là thứ lưỡi qua giống hệt thứ lưỡi qua tìm thấy ở miền Giang Hoài và ở miền Chiết giang là nơi căn cứ xưa của Việt tộc. Những đồ ấy chứng tỏ rằng người Lạc Việt là một dân tộc hiểu chiến sự xung đột thường xẩy ra giữa các nhóm Bách Việt và sự áp bức của Hán tộc đã đào luyện thành tính thượng võ ấy, và đã có một kỹ thuật chiến tranh khá cao.
Đồ trang sức thì có những vòng tay bằng đồng, những vành tai và bông tai bằng đồng, những móc đai lưng và những chuông nhỏ. Những đồ ấy làm tinh tế lắm, tỏ rằng những thợ đồng Lạc Việt là thợ trang sức rất khéo.
Trong những đồ đồng đào được ở Đông sơn, có một số có hình người, Goloubew nhận là một hạng đồ cấp cho chúng ta tài liệu rất quý để nghiên cứu về hình trạng của người bản xứ bấy giờ cùng là phong tục và tín ngưỡng của họ. Trong số đồ ấy có một cái hình người để tóc búi ở sau gáy, bịt một cái khăn ngang tai, mối buộc với nhau và xõa xuống lưng, ở mỗi tai có đeo một cái vành lớn, tuồng như có một cái giây lưng có tua bỏ xõa về dường sau. Lại có một cái hình người khác, mỗi tay đeo một cái vòng, tai cũng đeo vành lớn, phần thân dưới mang một cái váy như kiểu váy của người Mọi, ở trước váy có thêm một miếng lá phủ, tóc thì một nửa búi ngược ở đỉnh đầu, một nửa chóc thành bím bó thõng xuống lưng, búi tóc có bịt một cái khăn, in hệt như kiểu tóc và kiểu khăn của người Dayak. Theo hai hình người ấy, chúng ta có thể phỏng đoán được phục sức của người Lạc Việt là thế nào. Theo lời sớ của Tiết Tôn, làm quan tại Giao châu ở thời Tam quốc (Tam quốc chí, 9. 53) thì khi người Giao chỉ mới thuộc nhà Hán – tức là người Lạc Việt – họ búi tóc và đi chân không.
Những hình người giả trang bằng lông chim khắc ở trên hai cái búa và những hình người khác trên trống đồng Ngọc lũ là hình dung những người vừa thổi kèn bè vừa nhảy múa, có tính chất tô tem. Trên mặt trống đồng Ngọc lũ có hai cặp người tuồng như là đương giã gạo bằng những cái chầy ở đầu có buộc lông chim. Người ta nhận thấy rằng trong những cuộc hội hè, ở đất Mường ngày nay có những người múa, người hát, người thổi kèn bè, người giã gạo bằng cối không, hình như để gõ nhịp, trong khi các thầy mo vừa múa, vừa đánh trống. Có lẽ ở xã hội Lạc Việt xưa cũng có những cuộc hội hè tương tự, trong ấy trai gái múa nhảy giữa những tiếng nhạc khi như kèn, sênh, trống đồng và tiếng chày gõ nhịp.
Về những hành động có ý nghĩa tô tem nói trên, chúng tôi tưởng rằng đó chỉ là di tích tàn dư của chế độ xưa trong phong tục lễ nghi, chứ người Lạc Việt sau khi đã định cư làm nông nghiệp ở trung châu thì không còn theo chế độ tô tem nữa. Cũng như thế tục xăm mình là tục xưa chung cho cả Việt tộc, và truyền thuyết con Rồng cháu Tiên mà sau này người Việt nam vẫn còn theo, đó cũng đều là di tích của chế độ tô-tem của tổ tiên xưa, từ khi họ còn ở miền lưu vực sông Dương tử.
Những đồ cúng và đồ minh khí đào được trong các mỏ xưa ở Đông sơn là những chứng thực rõ ràng về sự tín ngưỡng quỷ thần của người Lạc việt. Họ chôn người chết cũng theo nghi thức như người Việt xưa – bỏ đồ minh khí bằng đá hay bằng đồng vào quan tài mà chôn. Những tính chất phương thuật mà Goloubew nhận thấy trong các lễ thức hình dung trên trống đồng, phù hợp với những điều ghi chép trong thư tịch xưa. Sử sách xưa đều chép rằng người Việt chuộng phương thuật, chúng ta có thể suy ra mà cho rằng người Lạc Việt cũng chuộng phương thuật. Sách Việt sử lược chép rằng ở đời Trang vương nhà Chu, tại quận Gia ninh – tức huyện Mê linh thời Hán – có người lạ đến, lấy ảo thuật để thu phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng vương. Câu sách ấy tất có quan hệ đến sự di thực đến miền Bắc kỳ của người Lạc Việt, nó có thể cho chúng ta biết rằng xưa đã có truyền thuyết rằng tư tưởng Lạc Việt là người giỏi pháp thuật, và khiến chúng ta suy đoán rằng có một thời thần quyền và chính quyền đã cùng nhóm Lạc trong tay một người pháp sự, đồng thời là thủ lĩnh chính trị.
Về hình thái xã hội thì có lẽ khi người Lạc Việt mới đến, họ còn theo chế độ thị tộc cũng như những người thổ trước Anh-đô-nê. Dần dần với sự phát triển của nông nghiệp, trong xã hội thị tộc đã xuất hiện gia tộc phụ hệ ; song ở những miền hẻo lánh và rừng núi thì chế độ thị tộc vẫn còn đậm đà, cho nên sách Hậu Hán thư (q.116) mới chép rằng : “người Giao chỉ không phân biệt trưởng ấu, người Lạc Việt không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng” nghĩa là không có tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ chế độ tôn pháp như người Hán tộc. Theo lời sớ của Tiết Tôn (Tam quốc chí, q. 53) thì khi mới thuộc Hán, người Giao chỉ ở huyện Mê linh, và người Cửu chân ở huyện Đô lung, tức là người Lạc Việt, hễ anh chết thì em lấy chị dâu, đó là di tích của chế độ thị tộc mẫu hệ. Song nếu di tích mẫu hệ còn tồn tại ở đôi nơi thì có lẽ ở các miền trung châu, trình độ tổ chức xã hội của người Lạc Việt đã vượt khỏi trạng thái mẫu hệ mà đến phụ hệ rồi, tuy là chưa đến trình độ tôn pháp như người Hán tộc.
Về tổ chức chính trị thì có lẽ trình độ của người Lạc Việt khi mới đến cũng không hơn mấy trình độ của người thổ truớc Anh-đô-nê. Có lẽ các thị tộc Lạc Việt cũng như các thị tộc Anh-đô-nê chỉ họp lại thành những bộ lạc ở dưới quyền một vị tù trưởng, cũng như những bộ lạc thiểu số ở miền Lưỡng Quảng, ở miền Hải nam và những bộ lạc người Mọi ở miền Trường sơn ngày nay. Nhưng khi người Lạc Việt đã ở rộng ra Bắc kỳ và đã đồng hóa được phần đông người thổ trước để xây dựng được một nền văn hóa khá cao, thì có lẽ chủ quyền trong bộ lạc đã có khuynh hướng tập trung mà thành một thứ chế độ phong kiến sơ sài. Xã hội học cho chúng ta biết rằng : “Khi một bộ lạc đã ở nhất định trong một địa vực nào, thì chủ quyền thổ địa thay thế dần dần cho chủ quyền thị tộc. Rốt cuộc sự chuyển hóa đến một cơ sở thổ địa đã làm nảy nở trong những tập đoàn lớn cái quan niệm vương hầu, đồng thời ở trong những tập đoàn nhỏ thì nảy nở cái quan niệm tư hữu tài sản. Các thôn ấp đầu tiên phần nhiều là một thị tộc tô tem định cư ở một địa vực. Một bộ lạc khi đã định cư thì thành một tỉnh hay một huyện tùy theo quy mô rộng hẹp. Vị tù trưởng (hay quận trưởng) của bộ lạc dần dần thành hầu hay thành vương tùy theo trường hợp. Nhưng cái chủ quyền thổ địa, cùng với tổ chức xã hội tương đương, vẫn còn giữ lấy những đặc tính của chủ quyền thị tộc, cho nên trong tổ chức quốc gia phong kiến người ta vẫn thấy có những tính chất của tổ chức thị tộc xưa [3]. Lời dẫn văn dài dòng ấy có thể cho chúng ta một ít ám thị về sự biến chuyển tổ chức chính trị của người Lạc Việt từ chế độ bộ lạc sang chế độ phong kiến với Lạc Vương là người nắm chủ quyền tối cao, và ở dưới là các lạc hầu, lạc tướng. Sự chuyển biến ấy đã phải trải qua bao nhiêu thời gian và đã gây ra bao nhiêu xung đột, dùng hết bao nhiêu bạo ngược, tốn hết bao nhiêu hy sinh mới hoàn thành hiện nay chúng ta không thể lường biết được. Chúng ta chỉ có thể theo câu sách Quảng châu ký nói :
“Đất Giao chỉ (chỉ miền Bắc kỳ) có ruộng lạc, người ăn ruộng ấy gọi là lạc hầu” mà đoán rằng chủ quyền thổ địa của thị tộc trước kia đến bây giờ đã tập trung vào tay vị lạc hầu là tù trưởng cũ, vẫn nắm luôn cả quyền chính trị trong bộ lạc. Ruộng đất xưa kia là của chung của thị tộc, bấy giờ đã chuyển thành thái ấp riêng. Người lạc dân mà sách Giao châu ngoại vực ký nói là “dân khẩn ruộng mà ăn” có lẽ thân phận cũng không khác gì thân phận của nông nô Âu châu ở thời Trung cổ. Nhưng cái chế độ lạc dân, cũng như chế độ phong kiến nói trên, hiện nay chúng ta chưa có đủ điều kiện để nghiên cứu tường tận. Có lẽ nghiên cứu chế độ quan lang và chế độ thổ ty của người Mường ngày nay – đừng lộn với người Đầy – thì chúng ta sẽ có một quan niệm đại khái về các chế độ của người Lạc Việt xưa.
CHƯƠNG II
Thời kỳ Bắc thuộc
I. – CUỘC BẮC THUỘC VÀ SỰ KINH LÝ CỦA MÃ VIỆN
Chúng ta biết rằng người Lạc Việt đã cản nổi thế lực quân Tần để giữ vững nền tự chủ. Nhưng một dân tộc nhỏ không thể nhất đán biến thành một dân tộc đông đúc phú cường, mà cái sức phát triển của người Hán tộc về Nam thì đương đi tới như nước triều, dù người Lạc Việt có ngăn cản được thì cũng là ngăn cản nhất thời, mà rốt cuộc cũng phải lui nhường. Thực vậy, sau khi Triệu Đà nhân cuộc loạn ở Trung quốc, lấy quân đội, quan lại và thân thuộc toàn là người Hán tộc để kinh dinh nước Nam Việt, rồi lấy thế lực một nước lớn ở ngay bên cạnh mà dùng mưu mô quỷ quyệt để uy hiếp nước Âu Lạc thì người Lạc Việt phải khuất phục ngay. Sự áp bách nam tiến của Hán tộc đã dùng nước Nam Việt của Triệu Đà làm cái bàn nhún để vượt sang bán đảo Ấn độ chi na. Không đầy một thế kỷ về sau, nhà Hán thay nhà Tần mà thống nhất Trung quốc, đã diệt nước Nam Việt để kiêm tính luôn nước Âu lạc cũ. Sử cũ thường cho cuộc ngoại thuộc Trung quốc bắt đầu từ cuộc chinh phục của Lộ Bác Đức nhưng thực ra thì nó đã bắt đầu từ Triệu Đà.
Buổi đầu sau khi diệt được nước Âu lạc, Triệu Đà chỉ chia đất ấy ra làm hai quận Giao chỉ và Cửu chân đặt ở mỗi quận một viên quan văn để coi việc dân và một viên quan võ (tả tướng) để coi việc binh còn các nhà quí tộc bản xứ thì vẫn được giữ thái ấp mà trị dân. Nhất thiết chế độ phong tục của người bản xứ, Triệu Đà không đụng chạm đến. Về sau nhà Tây Hán cũng noi theo chính sách lỏng lẻo của nhà Triệu đối với người Lạc Việt. Trong hai quận Giao chỉ và Cửu chân của nhà Hán là đất bản bộ của người Lạc Việt, họ vẫn giữ hai viên quan văn của nhà Triệu cho làm Thái thú để trông nom các lạc tướng, mà việc trị dân vẫn để cho các lạc tướng như cũ, không đụng chạm gì đến tổ chức nội bộ của người bản xứ. Có lẽ dưới sự cai trị lỏng lẻo ấy, văn hóa Lạc Việt vẫn được tự do phát triển như trước, cho nên đến nửa thế kỷ thứ I sau Kỷ nguyên, Mã Viện còn thấy trống đồng ở đất Giao chỉ.
Nhưng sang thời Đông Hán thì chính sách cai trị đối với các châu quận, riêng đối với các châu quận mới mở ở xa, lại biến thành chính sách thắt chặt, mà các Thái thú các quận mới lại đặc biệt dụng tâm về việc du nhập văn hóa Trung quốc cho người bản xứ, nhất là Tích Quang, Thái thú quận Giao chỉ, và Nhâm Diên, Thái thú quận Cửu chân. Từ đó văn hóa Lạc Việt bắt đầu bị xâm phạm, chế độ xã hội và chính trị cũ mới bắt đầu lung lay. Giai cấp quý tộc cũ tất nhiên cảm thấy địa vị và quyền lợi của mình bị đe dọa, cho nên đối với chính sách cải cách của quan lại Trung hoa, họ thường phản đối ngấm ngầm. Đến khi Nhâm Diên đổi đi quận khác và Tô Định đến thế Tích Quang thì mối oán giận của các nhà quý tộc bản xứ lại tăng lên gấp bội vì những thủ đoạn tham tàn bạo ngược của các Thái thú mới, và chỉ chờ có cơ hội là nổ bùng ra. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc.
Trong các nhà quý tộc Lạc Việt thì nhà Lạc tướng Mê linh là danh vọng nhất, vì là dòng dõi Lạc vương xưa. Con gái Lạc tướng là Trưng Trắc lại là người rất hòa hiệp dũng cảm, thực là người đủ uy tín để hiệu triệu toàn thể giai cấp quí tộc bản xứ. Cuộc khởi nghĩa thành công dễ dàng mau chóng là nhờ ở tinh thần đoàn kết của các nhà quý tộc : sự đoàn kết ấy do một cuộc đào luyện ngấm ngầm trải gần ba thế kỷ nay, bắt đầu từ cuộc thống nhất Âu lạc dưới tay lãnh đạo của An dương vương, trải qua cuộc kháng chiến lâu dài với quân Tần và non hai trăm năm sinh hoạt khá tự do dưới ước thúc lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Tây Hán, đã khiến cái manh nha của tinh thần dân tộc của người Lạc Việt được nẩy nở thêm. Sử cũ chép rằng Trưng Trắc được các nhà quí tộc các quận Giao chỉ, Cửu chân, Nhật nam và Hợp phố hưởng ứng, đánh đuổi được quân Trung quốc và xưng vương trong khoảng ba năm (39-42) dành lại được nền tự chủ cho người Lạc Việt. Nhưng đầu năm 42, nhà Hán sai viên lão tướng là Mã Viện đem quân phản công Trưng Trắc. Trước lực lượng của quân đội Trung hoa mới đến, nghĩa quân không cầm cự lâu dài được mà rốt cuộc phải thất bại. Chúng ta có thể hiểu cuộc thất bại ấy là do nguyên nhân chính sau này : nếu về chính trị cuộc khởi nghĩa Trưng Trắc là đại biểu cho sự mâu thuẫn giữa tinh thần dân tộc đối với sự ức chế của ngoại tộc, thì về văn hóa nó lại là đại biểu cho sự mâu thuẫn của văn hóa Lạc Việt bấy giờ còn chứa nhiều yếu tố sơ khai, đối với văn hóa Trung hoa đương đầy sinh khí tiến thủ. Cuộc thất bại của Trưng Trắc sẽ để cho văn hóa của Hán tộc mà Mã Viện là đại biểu tha hồ mà tung hoành để thay đổi hẳn diện mạo của xã hội xưa.
Về cuộc kinh lý của Mã Viện, sử sách chỉ chép rằng : “Viện đi qua chỗ nào là đặt quận huyện, xây thành quách, đào sông tưới ruộng...Lại tâu hơn mười việc về luật người Việt khác với luật người Hán và xin thi hành pháp chế cũ (của người Hán) đối với người Việt để ước thúc họ”. Câu sách ấy cho chúng ta biết rằng Mã Viện nhận thấy chính sách rộng rãi đối với chế độ phong kiến ở đất Việt là rất nguy hiểm cho sự thống trị của nhà Hán, nên đã bỏ chế độ phong kiến mà đặt quận huyện để giao cho quan lại Trung hoa cai trị trực tiếp.
Một số các lạc tướng đã tử trận; một số nữa vì sợ Mã Viện báo thù mà phải trốn tránh. Cũng có người không chịu được sự ức chế của nhà Hán đã vượt qua Hoành sơn mà vào miền Nhật nam ; cũng có những phần tử ở bờ biển đã vượt biển mà đi tìm chỗ dung thân ở Mã lai quần đảo, nhân thế đã đem văn hóa Lạc Việt mà truyền bá đến miền Nam dương. Những người còn lại đã qui phục Mã Viện thì có lẽ vẫn giữ được cơ nghiệp cũ mà làm trưởng lại để trị dân và được giữ quyền thế tập về chính trị. Những nông dân trong các thái ấp trước kia là tôi tớ của các lạc tướng, bây giờ vẫn là tôi tớ của họ để làm ruộng cho họ theo thân phận nô tỳ. Còn ruộng đất của các lạc tướng tử trận hay trốn tránh, thì tất nhiên là bị tịch biên làm ruộng đất công, để dần dần bị lớp quý tộc mới chấp chiếm, lớp quý tộc mới sẽ dần dần trưởng thành dưới sự che chở của quan lại Trung hoa.
II. HÁN HÓA VỀ CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
Sau khi quân Hán chinh phục đất Âu lạc cũ thì họ giữ hai quận Giao chỉ và Cửu chân và đặt thêm ở miền nam một quận mới là Nhật nam. Tại mỗi huyện, họ đặt một viên Thái thú để coi việc dân chính và một viên Đô úy để coi việc binh. Những thái ấp phong kiến cũ đều đổi làm quận huyện, nhưng họ vẫn để thuộc quyền các lạc tướng địa phương. Đến sau cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc, Mã Viện mới theo chế độ quận huyện của Trung hoa mà đặt lại các huyện, với các huyện lệnh hoặc là người lạc tướng quy phục, hoặc là người quan lại Trung hoa.
Quận Giao chỉ gồm mười huyện, tương đương với miền hạ du và trung du Bắc kỳ ngày nay, ở lưu vực sông Hồng hà và sông Thái bình. Quận trị buổi đầu là Mê linh – nay là làng Hạ lôi, tỉnh Phúc yên – rồi đổi sang Liên lâu – hiện là làng Lũng khê, tỉnh Bắc ninh – sau nữa dời sang Long biên – nay là làng Phú mẫn, tỉnh Bắc ninh.
Quận Cửu chân gồm bẩy huyện, tương đương với miền Thanh hóa và Nghệ Tĩnh ngày nay. Quận trị là Tư phố, miền làng Ràng trên sông Mã. Quận Nhật nam gồm năm huyện, đại khái tương đương với miền đất từ phía nam Đèo Ngang đến phía nam đèo Ải Vân. Buổi đầu quận trị là Tây quyển, tại làng Cao lao hạ trên sông Gianh.
Ba quận Giao chỉ, Cửu chân và Nhật nam thống thuộc vào Giao chỉ bộ, sau đổi làm Giao châu, châu trị phần nhiều đặt cùng một nơi với quận trị Giao chỉ.
Sang thời Tam quốc, năm 264, nhà Ngô chia đất Giao châu làm hai, lấy các quận miền bắc làm Quảng châu và bốn quận Họp phố, Giao chỉ, Cửu chân, Nhật nam làm Giao châu. Trải qua các thời Tấn thời Tùy, chính sách cai trị Giao châu đại khái cũng noi theo chính sách của nhà Hán.
Nhưng sau cuộc vận động Độc lập của Lý Bôn nhà Đường thấy rằng chính sách đồng hóa thi hành mấy lâu từ thời nhà Hán là vô hiệu quả, người Giao châu vẫn không tự xem mình là người Trung quốc mà cứ giữ hoài bão độc lập, cho nên họ phải thay đổi chính sách đối với thuộc địa. Vua Cao tổ nhà Đường bèn đặt An nam đô hộ phủ để thống trị dân thuộc địa cho nghiêm ngặt (năm 679), và chia đất Giao châu cũ làm 12 châu, gồm 59 huyện. Đến sau khi Giao châu bị người Nam chiếu xâm nhiễu, nhà Đường lại đổi An nam đô hộ phủ làm Tĩnh hải quân tiết trấn, tức là đổi cơ quan thống trị thành một cơ quan quân chính để trấn áp phương dân cho đắc lực, song sự tổ chức hành chính cứ để theo cũ. Sau này họ Khúc muốn lập vương nghiệp, có sửa sang tổ chức hành chính, hẳn vẫn nhân theo sự tổ chức châu huyện của nhà Đường.
Xét qua sự kinh dinh chính trị của các triều đại Trung hoa đối với Giao châu, có một điều chúng ta đáng chú ý nhất là từ thời Tây Hán sang thời Đông Hán, từ thời Đông Hán trải qua một cuộc độc lập của nhà Tiền Lý, sang thời Tùy, Đường, cái khuynh hướng rõ rệt của chính sách thống trị của người Trung quốc là tước lần quyền lợi của các thủ lĩnh phong kiến địa phương, thu hẹp lần phạm vi của chế độ phong kiến phân quyền để đem dần quyền uy về quan lại trung ương mà khuếch trương phạm vi của chế độ phong kiến tập quyền. Họ Ngô sau này xây dựng quốc gia tự chủ là thừa hưởng được cái kết quả tập trung chính quyền mà nhà Đường đến đời Cao Biền đã hoàn thành vậy.
*
* *
Chúng ta đã biết các Thái thú Tích Quang (quận Giao chỉ) và Nhâm Diên (quận Cửu chân) đã dụng tâm du nhập văn hóa Trung quốc cho người bản xứ, khiến hình thái xã hội của người Lạc Việt bắt đầu bị lung lay. Đem chế độ hôn nhân thi hành cho người Lạc Việt, hai vị thái thú ấy đã đem chế độ tôn pháp của Hán tộc dần dần thế cho chế độ thị tộc xưa. Có lẽ từ đó người bản xứ cũng bắt đầu theo cách đặt tên đổi họ như người Trung quốc. Chế độ gia tộc thay đổi, thì chế độ tài sản tất cũng đã bị lay chuyển từ trước rồi, nhưng có lẽ thay đổi triệt để là từ cuộc kinh lý của Mã Viện. Sau khi đã đặt chế độ quận huyện, Mã Viện không thể nào để yên chế độ thổ địa cũ là căn bản của chế độ phong kiến Lạc Việt. Có lẽ trong mười điều luật người Việt khác với luật người Hán mà Mã viện tâu xin vua Hán sửa đổi, thì những điều trọng yếu là bỏ chủ quyền thổ địa của các lạc tướng bị truất, mà chuyển thành chủ quyền của Quốc gia như ở Trung nguyên. Mã Viện đã xô đổ chế độ phong kiến nguyên thủy mà xây dựng nền móng của chế độ phong kiến quốc gia sau này. Có lẽ ở những miền xa các nơi quận trị nhất là ở miền thượng du hẻo lánh, chế độ phong kiến cũ vẫn được duy trì với các lạc tướng quy phục tuy mang danh nghĩa trưởng lại mà vẫn giữ được quyền thế tập. Có lẽ đến thời Đường, chế độ quận huyện thi hành rộng rãi ra thì cái phạm vi của chế độ phong kiến quốc gia – tập quyền – cũng mở rộng ra để thu hẹp bớt phạm vi của chế độ phong kiến cũ, khiến nó chỉ còn tồn tại ở các miền dân tộc thiểu số như Mường, Thái mà thôi. Căn bản của chế độ phong kiến mới vẫn là nông dân (xưa là lạc dân) hoặc làm nô tỳ hay điền nô, hoặc làm điền hộ vừa nộp tô thuế và sưu dịch cho quan lại Trung hoa, vừa vẫn phải nộ địa tô và lạc dịch cho địa chủ mới của họ.
Ở trên nông dân là giai cấp thấp nhất, dần dần đã cấu thành một giai cấp quý tộc mới. Chúng ta đã đoán rằng một số các lạc tướng qui phục vẫn giữ cơ nghiệp cũ mà làm trưởng lại thế tập để trị dân. Ngoài số quý tộc cũ ấy, thì có con cháu những quan lại Trung hoa bổ sang thuộc quốc đã nhờ thế lực hay vinh ấm của cha ông mà dinh cơ lập nghiệp, hoặc những người Trung hoa vì tránh loạn trong nước, hay có chí phiêu lưu mà ra ngoài kiếm ăn, đã vì lẽ này hay lẽ khác mà được các quan lại giùm giúp nâng đỡ, hoặc những thuộc viên người bản xứ làm việc đắc lực được các quan lại tin dùng và ưu đãi, các hạng người ấy đã tậu được đất ruộng mới hay chấp chiếm được đất ruộng của các nhà quý tộc cũ bị truất làm thành một hạng tân địa chủ rất có uy thế. Đó là đại khái cái lịch trình cấu tạo của giai cấp quý tộc mới, các quan lại Trung hoa, suốt trong thời Bắc thuộc, đã dựa vào để thống trị.
III. HÁN HÓA VỀ SINH HOẠT VẬT CHẤT
Trong thời nhà Triệu, có lẽ người Hán tộc sang ở Âu lạc còn ít. Đến thời Tây Hán thì ngoài quan lại binh lính nhà Hán phái sang để cai trị và phòng giữ thuộc quốc, cùng những người tội nhân bị đày, thì các thương nhân Trung quốc cũng đã bắt đầu qua lại buôn bán. Nhưng từ thời Đông Hán trở đi thì sự di cư của người Hán tộc cũng do bốn yếu tố chính kể trên – trở thành quan trọng lắm. Nếu những số thống kê trong thư tịch cũ có thể tin được một phần nào, thì đem so sánh số nhân khẩu của nước Âu lạc khi nhà Hán mới chinh phục – 40 vạn người – và số nhân khẩu của Giao chỉ và Cửu chân chép trong TIỀN HÁN THƯ – 90 vạn – thì thấy mới cách có hơn trăm năm, nhân khẩu hai quận ấy đã tăng gia gấp hơn hai lần. Trong sự sống lẫn lộn của người Hán tộc và người Lạc Việt, ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc tất đã thay đổi rất nhiều cái phương thức sinh hoạt hàng ngày của người bản xứ. Từ phong tục, cách ăn, cách ở, cách mặc, cách đi, cho đến tiếng nói, thảy đều chịu ảnh hưởng của người Hán tộc sâu xa lắm. Nếu đem so sánh trạng thái của người Việt nam ở thời độc lập với trạng thái của người Mường là một nhánh bà con của chúng ta, vì tiến bộ chậm nên còn giữ được phần nhiều văn hóa xưa, chúng ta sẽ có thể tưởng tượng được ảnh hưởng ấy đi xa thế nào.
Người Lạc Việt sinh tụ ở miền Trung châu vốn đã theo nghề làm ruộng nhưng kỹ thuật làm ruộng của họ, vì chưa biết dùng đồ sắt và trâu bò, nên còn kém lắm. Nhờ sự giáo hóa của Tích Quang và Nhâm Diên, họ mới bắt chước được kỹ thuật canh nông của người Hán tộc. Những đồ xưa đào được ở Đông sơn chứng tỏ rằng ở thế kỷ thứ I, đồ sắt ở Giao chỉ và Cửu châu còn hiếm lắm. Nhưng từ đó về sau, sự dùng đồ sắt do người Trung quốc truyền đến một ngày một rộng, đồng thời nhờ kỹ thuật làm nông một ngày một tinh và chính sách trọng nông của các quan lại Trung hoa (nhất là chính sách thủy lợi, như việc đào sông tưới ruộng và đắp đê ngăn lụt) mà sự sản xuất về nông nghiệp đã tăng lên nhiều.
Về kỹ thuật, chúng ta có thể nhờ sự khai quật ở Đông sơn mà biết được rằng ảnh hưởng của Hán tộc đã làm cho kỹ thuật đồ đồng của người Lạc Việt suy dần, cho đến tiêu diệt hẳn mà nhường chỗ cho một kỹ thuật hoàn toàn ngoại lai. Ngay ở bên cạnh những đồ đồng thuần túy Lạc Việt mà người ta cho là thuộc về khoảng giữa thế kỷ thứ I, người ta đã nhận thấy một ít đồ đồng do người Lạc Việt chịu ảnh hưởng của người Trung hoa mà chế tạo. Tuy nhiên, bấy giờ ảnh hưởng của kỹ thuật Trung hoa hãy còn mỏng mảnh, đến sau cuộc kinh lý của Mã Viện thì sự áp bách của văn hóa Trung hoa mới một ngày một sâu.
Chúng ta chưa có thể đi theo dõi lịch trình chuyển biến của kỹ nghệ bản xứ, nhưng có điều chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng là cách non một nghìn năm về sau, trong những đồ đào được ở Đông sơn về thời Tống, chỉ thấy có những đồ gốm của người Trung hoa du nhập, hoặc do kỹ nghệ của người Trung hoa ở bản xứ chế tạo, chứ đồ đồng và đồ gốm của người Lạc Việt thì đã mất hẳn dấu vết rồi. Kỹ nghệ đồ gốm của người Hán tộc đã thay thế cho kỹ nghệ Lạc Việt mà thịnh hành từ bao giờ thì không biết được, duy cứ xem những đồ đào được ở Đông sơn và tại các nơi khác trong tỉnh Thanh hóa thì thấy rằng khi người Việt nam đã thoát ly ách nô lệ thì kỹ nghệ đồ gốm ở Việt nam đã thịnh vượng lắm.
Các công nghệ khác như nghề đúc gạch, nấu vôi, nghề xây nhà, xây thành, hẳn là người Lạc Việt cũng học của người Hán tộc. Kiến trúc phẩm từ thời Bắc thuộc thì ngày nay chỉ còn lại những mộ cổ xây bằng gạch rất kiên cố, qui mô to rộng, đủ chứng rằng từ thời Hán, nghề kiến trúc bằng gạch đã đến trình độ khá cao. Người Hán tộc hẳn là đã truyền cho người bản xứ thuật kiến trúc các đình chùa, cùng các đền đài dinh thự. Thuật chạm gỗ và tạc tượng để thờ tự và trang trí trong nhà ấy cũng là do người Hán tộc truyền cho.
Nghề dệt vải và dệt tơ có lẽ người Lạc Việt đã biết rồi, nhưng nhờ ảnh hưởng của nghề dệt Trung quốc mới phát triển được. Sử cũ chép rằng ở thời Đường thuế tô và thuế điệu ở An nam thu bằng tơ, điều ấy tỏ rằng nghề làm tơ ở đây đã thịnh lắm.
Người Hán tộc bấy giờ đã giỏi nghề buôn bán, tất nhiên những bọn lái buôn miền Bắc sang buôn bán tại Giao chỉ và Cửu chân đã dạy cho dân bản xứ, nhất là ở các thành thị, mở mang nghề buôn bán mà trước kia họ chỉ biết theo hình thức đổi chác hiện vật. Trong những đồ đào được ở Đông sơn, người ta đã thấy có tiền đồng và một trái cân. Các nhà khảo cổ học nhận rằng địa điểm Đông sơn gần làng Ràng trên bờ sông Mã là một nơi trung tâm – điểm thương mãi phồn thịnh ở thời Lưỡng Hán. Có lẽ các thuyền buôn của người Trung quốc bây giờ thường theo gió mùa mà qua lại miền ấy để đem đến bán cho người bản xứ những đồ dùng bằng sắt (nhất là điền khí) và bằng đồng, những đồ gốm và vải vóc, để mua lại mà chở về những đồ thổ sản, nhất là gạo, tơ sống và đồ lâm sản. Ở quận Giao chỉ, các đô thị lớn như Mê linh, Liên lâu, Long biên ở thời Hán và Tống bình ở thời Đường, hẳn cũng là những nơi thương mãi phồn thịnh ở trên lưu vực sông Nhị. Tiếc rằng đến nay chưa có một cuộc khai quật cổ tích nào để phát lộ cho chúng ta những di tích hoạt động của các đô thị ấy.
IV. HÁN HÓA VỀ SINH HOẠT TINH THẦN
Cũng như các phương diện sinh hoạt khác, sinh hoạt tinh thần của tổ tiên ta dễ chịu ảnh hưởng sâu xa của văn hóa Hán tộc, mà có lẽ ở lãnh vực này ảnh hưởng lại còn sâu xa hơn ở các lãnh vực khác nữa.
HÁN HỌC. Người Lạc Việt xưa đã có văn tự chưa? Xem đồ đồng, đồ đất của họ mà người ta đã đào được ở Đông sơn thì không thấy có gì là dấu chữ cả. Có lẽ vì người Lạc Việt không có văn tự riêng cho nên về sau chữ Hán của người Trung quốc truyền cho mới thành thứ văn tự độc nhất của dân tộc ta. Có lẽ chữ Hán được truyền cho người bản xứ là từ đời Triệu Đà hay ít ra là từ đời Tích Quang, Nhâm Diên (Sử cũ chép Tích Quang và Nhâm Diên có lập học hiệu để dạy dân). Sang thời Đông Hán chúng ta thấy sử chép có người Giao chỉ là Lý Tiến và Lý Cầm học chữ Hán giỏi và được bổ làm quan như người Trung quốc. nhưng Hán học truyền sang Giao chỉ được rộng rãi và có cơ sở vững vàng là nhờ công giáo háo của Sĩ Nhiếp mà người bản xứ biết ơn đã tôn gọi là Sĩ vương.
NHO GIÁO – Sĩ Nhiếp vốn tổ tiên là người nước Lỗ, tránh loạn thời Vương Mãng sang ở Quảng tín, huyện Thương Ngô. Thân sinh của Sĩ Nhiếp là Sĩ Tứ, làm Thái thú quận ........ cho Sĩ Nhiếp du học ở Kinh sư. Đỗ Hiếu liêm. Nhiếp bổ Thượng thị lang, rồi bị cách. Sau lại đỗ Mậu tài rồi được bổ làm Thái thú Giao chỉ. Đời Hán Hiến đế, trong châu nhiễu loạn, Sĩ Nhiếp xin vua Hán cho mấy người em làm thái thú các quận Cửu chân, Hợp phố và Nam hải, Sĩ Nhiếp lại cùng với Thứ sử Trương Tân dâng sớ xin đổi Giao chỉ bộ làm Giao châu, vua Hán thuận cho. Về sau, khi Trương Tân bị một người thuộc tướng giết, Sĩ Nhiếp lấy chức Thái thú Giao chỉ được kiêm lĩnh cả châu. Trong khi Trung hoa bắt đầu có loạn Tam quốc, Sĩ Nhiếp nhờ các em giúp đỡ, giữ gìn Giao châu được yên, được nhà Hán phong cho chức An viễn tướng quân, Long độ đình hầu. Sử cũ chép rằng Sĩ Nhiếp rất thông kinh truyện, thì tất đã đem nho học truyền cho giới quí tộc bản xứ.
Suốt thời Hán sang thời Đường, không thấy sử sách chép có người bản xứ nào có tiếng về nho học, mãi đến đời Đường Đức tôn mới có Trương Công Phụ là người Cửu chân đỗ Tiến sĩ, nổi tiếng văn chương ở Trung quốc, có bài phú “Bạch vân chiếu xuân hải” hiện nay còn truyền.
PHỤ CHÚ – Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Khưu, thường gọi là Khổng tử, sinh năm 551 tr. k. ng. ở nước Lỗ (Trung hoa).
Khổng tử vốn là nhà chính trị và nhà luân lý cho nền học thuyết của người chú trọng và sự thực hành.
Về chính trị thì tư tưởng chủ yếu của người là thyết chính danh. Khổng tử sinh vào vãn thời của chế độ phong kiến phân tán, mắt đương trông thấy chế độ xưa trúc đổ khiến xã hội bày ra cái cảnh hỗn độn đảo điên. Người nghĩ rằng muốn cho thiên hạ trở thành hữu đạo, thì chỉ có một phép là khiến Thiên tử cứ làm Thiên tử, bồi thần cứ làm bồi thần, thứ dân cứ làm thứ dân, mỗi bực người phải xứng với danh phận của mình. Điều chủ yếu trong thuyết chính danh là đại nghĩa tôn vương, bài xích sự tiếm việt của chư hầu, cốt mưu cuộc thống nhất cho quốc gia phong kiến.
Về luân lý thì tư tưởng của Khổng tử có thể tóm trong mấy điều : nhân, hiếu, đễ, trung thứ và lễ nhạc.
Đức “nhân” là đức của đạo trời, bao trùm hết cả vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Người ta phải theo thiên đạo mà cư xử, cho nên “nhân” cũng là đức chính của loài người. Đức nhân có thiên hình vạn trạng, nhưng đại khái người ta có thể tóm góp trong bốn tình : hiếu, đễ, trung, thứ.
Cái nhân cách mô phạm của Khổng giáo, chỉ người đạt được đức “nhân” đến trình độ đầy đủ nhất, là người quân tử. Chính người ấy là có tư cách thống trị.
Tuy chủ trương đức trị chủ nghĩa, Khổng tử cũng nhận rằng lễ phép là cần thiết. Mục đích của lễ là giữ mối giường cho quốc gia, giữ về tôn nghiêm của vua, tóm lại là duy trì trật tự phân minh ở ngoài xã hội. Còn ở bề trong thì Khổng tử cho rằng cần có nhạc để điều hòa tâm tính của người ta. Theo người thì chính trị làm bằng lễ nhạc là chính trị lý tưởng.
PHẬT GIÁO – Trong thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa được thịnh, cho nên Hán học bấy giờ không nhờ nho môn mà phần nhiều lại nhờ Phật môn để phát triển. Nguyên Phật giáo bắt đầu vào Giao châu từ khoảng thế kỷ thứ II. Người du nhập Phật giáo vào Giao châu sớm nhất, theo thư tịch còn ghi, là Mâu Bác (Người Trung hoa ở thời Hán mạt, để tránh loạn Tam quốc, đã theo mẹ sang Giao châu, rồi mới quy y Phật giáo và truyền bá Phật giáo ở đó). Đời Sĩ Nhiếp (187-226) ở Liên lâu là quận trị Giao chỉ, đã có nhiều thầy tăng người Ấn độ và Trung hoa lập nhiều chùa chiền để tu hành và thuyết pháp. Điều ấy tỏ rằng trước Mâu Bác thì Phật giáo ở Giao châu cũng đã có cơ sở rồi. Phái thiền tôn là môn phái sau này thịnh hành nhất ở nước ta thì truyền vào Giao châu từ năm 580 ở thời Đông Tấn, do pháp sư Ti-ni đa-lưu-chi (Vinitaruci, người Ấn độ) qua tự Quảng châu, người được xem là sư tổ của thiền tôn Việt nam. Sang thời Đường thì Phật giáo ở Giao châu đã thịnh lắm. Thư tịch của thiền môn chép rằng bấy giờ có nhiều vị cao tăng người Giao châu nổi tiếng về thiền học, lại tinh thông Hán học, là Vô ngại thượng nhân, Phụng đình pháp sư, Duy giám pháp sư, thường giao du bằng thi văn với nhiều văn nhân Trung hoa. Chúng ta có thể đoán rằng ở Giao châu, về thời Đường, Phật giáo thịnh hành hơn Nho giáo.
PHỤ CHÚ – Thủy tổ của Phật giáo là Thích ca mâu ni, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VI tr. k. ng (có lẽ đồng thời với Khổng tử) ở Ấn độ.
Tinh túy của Phật giáo, theo lời truyền dạy của Thích ca, là thuyết tứ diệu đề. Bốn đại đề ấy là :
Đệ nhất đề, tức là khổ đề (dupha). Cõi đời là cảnh khổ, không những chỉ người ta khổ mà vạn vật đều khổ cả. Vạn vật ở trong vòng sinh tử, cứ sống chết, chết sống, đời này kiếp khác, theo phép luân hồi. Khổ đề là cái nghiệp báo khốc hại nó bắt vạn vật chúng sinh cứ phải luẩn quẩn trong vòng luân hồi mà chịu những nỗi vô cùng khổ não.
Đệ tam đề, tức diệt đề (nirodha). Muốn cho vạn vật chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ não vô cùng ấy thì phải tìm cách ngăn ngừa phép luân hồi, mà muốn ngăn ngừa được luân hồi thì phải tiêu diệt được nghiệp báo. Đã ngăn ngừa được luân hồi thì không có sống có chết nữa, cảnh ấy Phật gọi là niết bàn (nérvana).
Đệ nhị đề, tức tập đề hay nhân đề (samudaya). Muốn diệt nghiệp báo thì phải diệt sự sinh, mà muốn diệt sự sinh thì phải diệt cái nguyên nhân thứ nhất của sự sinh là “vô minh” là mờ tối không thấu rõ lẽ tử sinh.
Đệ tứ đề, tức là đạo đề (marga). Nguyên nhân vô minh là một đám mây mù che lấp con mắt những kẻ ở trong vòng luân hồi nghiệp báo. Muốn phá tan được nó thì chỉ có một đường (đạo) phải theo, tức là đạo bát chính. Ai theo đạo ấy mà phá được vô minh, tức là diệt được hết thảy các nhân duyên khác, thế là hết sống hết chết, hết nghiệp báo, hết luân hồi, thế là hoàn toàn giải thoát mà đến niết bàn.
Luân lý của Phật giáo gốc ở nghĩa “nhất thiết bình đẳng” và ở nghĩa “vô nhân ngã”, nhưng Phật giáo lại cốt dạy người ta con đường giải thoát cho nên đối với mọi sự ở đời đều có thái độ tiêu cực. Dẫu rằng có dạy người ta xuất lực tự cường, nhưng cũng chẳng qua là tự cường xuất lực để nhẫn nại, để diệt dục, để mau đến cảnh giải thoát mà thôi.
ĐẠO GIÁO – Đồng thời với Nho giáo và Phật giáo, đạo giáo của Trung quốc cũng truyền sang nước ta từ thời Hán. Theo một đoạn trong bài tựa của sách MẬU TỬ [4] người ta có thể biết rằng đạo giáo truyền đến Giao châu vào khoảng cuối thế kỷ thứ II, cũng gần đồng thời với Phật giáo. Bấy giờ ở Trung quốc, đạo giáo đã được Trương Đạo Lăng gây dựng qui mô thành một thứ đạo thần tiên và một phương thuật phù thủy. Không rõ về phương diện tích cốc tu tiên để tìm thuật trường sinh bất tử thì người Giao châu có theo nhiều không, còn về phương diện phương thuật thì có lẽ đạo giáo đã gặp được miếng đất rất tốt để phát triển, tức là tâm lý mê tín phương thuật mà người Lạc Việt đã có sẵn từ xưa.
PHỤ CHÚ – Người ta cho rằng thủy tổ của đạo giáo là Lão tử, người ở nước Sở, họ là Lý, tên là Nhĩ, tự là Đam, sinh trước Khổng tử chừng hai chục năm.
Lão tử là tiên phong của tư tưởng đương thời phàm chư tử bách gia đời sau ở Trung quốc phần nhiều là gốc ở lão học.
Tư tưởng chủ yếu của lão học là “thanh tịnh vô vi” nhưng cái ảnh hưởng trực tiếp của lão học đối với tư tưởng của tổ tiên ta không lấy gì làm quan trọng lắm, mà cái ảnh hưởng của lão giáo bị đạo giáo lợi dụng lại sâu xa phổ cập vô cùng. Kể từ thời Tần Hán, nho học được độc tôn thì lão học suy dần. Lão giáo truyền sang Giao châu ở thời Hán là lão giáo đã do Trương Đạo Lăng biến chế thành một thứ tôn giáo đầy mê tín. Trương Đạo Lăng phụ hội thuyết thần tiên của bọn phương sĩ thời Lưỡng Hán và lợi dụng hư vô chủ nghĩa và phá hoại chủ nghĩa của lão học để lung lạc những kẻ bất bình trong xã hội, cho nên kết nạp được tín đồ rất đông.
Ở Giao châu, đạo giáo ấy gặp được những mê tín và phương thuật của người Lạc Việt sẵn có từ xưa cho nên được du nhập rất dễ dàng ở trong dân chúng.
*
* *
Đồng thời với tam giáo, Nho, Phật, Đạo, các món tế tự tạp nhạp, cùng các điều mê tín của Hán tộc, cũng đã nhân sự tạp cư của người Hán, mà ảnh hưởng đến những tín ngưỡng cố hữu của người Việt. Sự thờ phụng tổ tiên, vốn xưa làm cho linh hồn của tổ tiên khỏi khổ, và cầu tổ tiên phù hộ cho con cháu, trải qua cuộc hán hóa, nó lại thêm một ý nghĩa thâm thúy hơn là nhớ ơn sinh thành của tổ tiên (phục bản phản thủy) và lưu truyền nòi giống (vĩnh truyền gia thống).
[1] Chữ Bắc kỳ chúng tôi dùng đây là gồm cả miền Bắc kỳ và phía bắc Trung kỳ ngày nay.
[2] Cứ theo trạng thái sinh hoạt và phong tục của người Bách Việt và người U việt mà những đoạn văn rải rác trong các thư tịch xưa đã cho chúng ta biết, và bằng theo sự so sánh của các nhà nhân chủng học ngày nay giữa chủng tộc Tạng-Diên và chủng tộc Anh-đô-nê, chúng tôi đã ước đoán rằng người Việt tộc chỉ là một nhánh của một chủng tộc lớn mà khoa học ngày nay gọi là Anh-đô-nê, xưa kia đã từng chiếm ở khắp các miền Đông nam Á châu, gồm hết cả người Man Di từ lưu vực sông Dương tử trở về nam và những người Anh-đô-nê chiếm ở đất Ấn độ trước khi bị người A-ri-an đuổi phải di cư đến Ấn-độ chi-na.
[3] H. Moret et g. Davy, Des clans aux empires. Chap. IV. Da…………………………, Paris , 1923.
[4] “Sau khi vua Hán Linh đế mất, cả nước rối loạn, chỉ có Giao châu là nơi yên tĩnh, cho nên các sĩ đại phu phương Bắc trốn sang đó rất nhiều. Có nhiều người tu đạo thần tiên, làm thuật tịch cốc và trường sinh bất tử”.