Vào dịp Giáo sư Hoàng Tụy qua đời
tôi muốn chúng ta cùng ôn lại một số tư tưởng cải cách giáo dục mà ông và các
nhà trí thức cùng chí hướng ở trong và ngoài nước đã có dịp trình bày .
Sau đây là phần chủ yểu trong một bài tôi thấy gần gũi với tư tưởng của của giáo
sư Hoàng Tụy nhất.
Trích từ bài
Ôn Cố Tri Tân qua những bước Thăng Trầm[*]
đưa trên trang mạng Văn hóa Nghệ An , 03 Tháng 10 2011
http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/on-co-tri-tan-qua-nhung-buoc-thang-tram*
Trích từ bài
Ôn Cố Tri Tân qua những bước Thăng Trầm[*]
đưa trên trang mạng Văn hóa Nghệ An , 03 Tháng 10 2011
http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/on-co-tri-tan-qua-nhung-buoc-thang-tram*
Về tác
giả - Giáo sư Phạm Xuân Yêm xin mời các bạn tra cứu thêm trên mạng
Hãy lấy 1954 vào lúc hiệp định Genève chia đôi
đất nước làm cột mốc cũng là năm tôi tốt nghiệp truờng trung học Chu Văn An ở
Hà Nội. Cho đến năm ấy cả Đông Dương chỉ có một trường Cao Đẳng chủ yếu đào tạo
cho đến trình độ dăm ba năm sau tú tài vài ngành nghề như Y Dược, Luật, Khoa
Học Tự Nhiên. Trong bối cảnh của thời ấy, nghiên cứu khoa học theo cái
nghĩa ta hiểu ngày nay quả là điều không tưởng. Số lượng sinh viên chỉ khoảng
trên dưới một ngàn, tuyệt đại đa số -nếu không 100%- đội ngũ thầy giảng dạy là
Pháp chỉ có vài trợ giảng viên Việt. Số tiến sĩ khoa học người mình lơ thơ đếm
được trên đầu ngón tay, xin tạm kể quý giáo sư Lê Văn Thiêm (toán), Vũ Như Canh
(lý), Phạm Tinh Quát (toán), Nguyễn Quang Trình (hoá), hai vị sau ở Pháp được
đặc phái sang đại học Sài Gòn vài năm kể từ 1954.
Nửa thế kỷ trôi qua, sau cuộc chiến thảm khốc và sự di tản của
đồng bào đến khắp năm châu - với cường độ chưa từng xẩy ra trong lịch sử trên
ngàn năm của nước nhà - ngày nay đội ngũ thầy giảng dạy, sinh viên, trường sở
đại học và cao đẳng tất cả về số lượng đã nhân lên gấp vài
trăm lần, nhưng chất lượng đại học và nghiên cứu khoa
học -dẫu hai mà một- lại là cả một vấn đề gai góc. Hơn nữa cái nền tảng hướng
dẫn sự trưởng thành để phát huy toàn diện con người mà ta gọi là triết lý giáo
dục thậm chí có phần đi ngược lại trào lưu tiến hóa của thế giới phát triển.
1-
Để nhìn lại bước đường đã
trải từ năm toàn quốc kháng chiến 1946 đến giờ, xin lấy hai ngành hoạt động là
quân sự và đại học-nghiên cứu, tuy hoàn toàn khác biệt nhưng lại có một điểm
chung duy nhất là khởi đầu gần như từ con số không. Tượng trưng một bên bởi mấy
chiếc gậy tầm vông và vài khẩu súng trường, bên kia là cậu thanh niên mê say
khoa học họ Hoàng mới khoảng hai mươi tuổi đời lặn lội từ Quảng Ngãi ra Việt
Bắc tìm gặp thầy Thiêm cũng vừa từ trời Âu trở về để trao đổi và học hỏi về
toán hiện đại. Thủa ấy ngây thơ tôi hiểu quân sự theo cái nghĩa cao đẹp nhất
như phương tiện giành và bảo vệ nền độc lập thoát khỏi ách nô lệ Pháp, chứ
không để tranh bá đồ vương áp đặt một thể chế chính trị nào; còn giáo dục nói
chung và nghiên cứu khoa học-công nghệ nói riêng là phương cách khai minh (1)
dân trí ra khỏi cảnh tối tăm, thiếu trưởng thành. Như Tây Hồ tiên sinh nhận
thấy cả trăm năm rồi, cho dù có độc lập đi nữa mà dân trí còn lạc hậu thì
cũng chỉ là chuyện thay đổi chủ mà thôi.
Thực là kỳ diệu khi khởi đầu gần như từ bàn tay trắng, hai hoạt
động quân sự và giáo dục đã phát triển đồng hành trong cái thủa ban đầu lưu
luyến ấy (1946-1954). Nhưng sau đó quá trình phát động của hai ngành đã trở nên
hoàn toàn bất đối xứng ở cả đôi miền Nam và Bắc, tuy với nhịp độ và thời điểm
khác nhau. Bước ngoặt có lẽ khởi đầu ngay từ 1956 ở Hà Nội mà sự dập tắt phong
trào Nhân Văn-Giai Phẩm rất có thể chỉ là tảng băng nổi (2) của chiến lược tất
cả dành cho tiền tuyến để ‘giải phóng’ miền Nam. Cũng thế chính quyền Sài Gòn
với chiến dịch tố diệt cộng, kèm theo nạn gia đình trị rồi kế tiếp bởi câu hò
‘Bắc tiến’ của mấy ông tướng sau này. Trong bối cảnh toàn cầu của cuộc chiến
tranh lạnh bấy giờ, nên lưu ý là thế giới thứ ba trong hội nghị Bangdung năm
1955 mặc dầu khuyến cáo bên nào bên nấy chung sống thi đua hòa bình để phát
triển phần mình sao cho thoát khỏi cảnh lạc hậu, dân tộc ta đã mắc vào cuộc
chiến kinh hoàng mà hai chính quyền Đông-Tây Đức và Bắc-Nam Triều Tiên (kinh
nghiệm sau ba năm nội chiến khốc liệt với sự can thiệp của thế lực ngoại cường)
cùng chung cảnh ngộ đất nước chia đôi đã tránh khỏi. Xét cho cùng, ai có
thể đem súng đạn xúi giục ta đánh giết nhau nếu ta đủ tầm văn hoá mà trưởng thành,
tiên liệu cái giá phải trả mà tránh đi và điều này thì mỗi chúng ta trong tâm
thức thâm sâu nhất đủ chín chắn để tự trả lời. Thôi thì như đã viết thi hào
Nguyễn Du, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa hãy tự trách mình, nhắc lại chỉ
để cùng nhau suy ngẫm mà làm bài học muôn thủa.
Khi giải pháp quân sự đã chiếm thế thượng phong để thống nhất đất
nước bằng mọi giá, khi biết bao tinh hoa đất nước bị chôn vùi trong cuộc chiến
(3) thì dĩ nhiên làm sao nền giáo dục nói chung và đại học chất lượng cao cùng
nghiên cứu khoa học công nghệ nói riêng có thể phát triển bình thường (4). Dẫu sao phải thừa nhận thời ấy đã có những vị ít nhiều trách
nhiệm về giáo dục ở cả hai miền có công tâm và tầm nhìn xa chọn lọc những tài
năng trẻ gửi đi du học bên Đông hay Tây Âu sửa soạn đào tạo những chuyên gia để
kiến thiết sứ sở sau này (5).
2-
Nhưng có lẽ cái mà ta chưa mấy đào sâu lại là chuyện triết lý giáo
dục, nền tảng và kim chỉ nam dẫn hướng cho sự phát huy toàn diện tri thức con
người. Thực ra cho đến nay nói chung nền giáo dục nước ta bị chi phối bởi ba
luồng tư tưởng lỗi thời: Tống nho từ chương thời vua chúa phong kiến, học để
làm quan vinh thân phì gia thời Pháp thuộc, giáo điều vướng mắc hiện nay. Điểm
son của triết lý giáo dục tiến bộ (6) trên thế giới là sự bao dung, tôn trọng
và bàn cãi tự do những tư tưởng, văn hóa, chính kiến, tín ngưỡng khác nhau,
chúng có khi đối chọi nhưng lắm khi bổ túc cho nhau. Trong khi ấy triết lý giáo
dục của ta hãy còn nhiều điều cấm kỵ, kiềm chế. Tư duy độc lập, phê phán, phản
biện, tự vấn không ngừng là những yếu tố quyết định của một nền giáo dục tiến
bộ và phổ quát. Không thể áp đặt một hệ tư tưởng bất luận nào đó - cho dù ưu việt đến mấy trong một thời-
lên sự nghiệp giáo dục đào tạo con người. Nó chỉ kìm hãm tư duy sáng tạo.
3-
Trước khi đề cập đến đại học, tôi xin tản mạn đôi điều về nền Tiểu và Trung học mà hai điểm son là sự nghiệp xóa bỏ nhanh chóng nạn mù chữ và Việt Nam hóa các danh từ khoa học khởi đầu bởi nhà văn hóa Hoàng Xuân Hãn. Chính nhờ hai thành quả này đạt được từ hơn nửa thế kỷ trước đây mà học sinh nước ta cho đến nay vẫn có được một nền tảng học vấn căn bản tương đối vững chắc không thua kém mấy so với thế giới bên ngoài (7).
Trước khi đề cập đến đại học, tôi xin tản mạn đôi điều về nền Tiểu và Trung học mà hai điểm son là sự nghiệp xóa bỏ nhanh chóng nạn mù chữ và Việt Nam hóa các danh từ khoa học khởi đầu bởi nhà văn hóa Hoàng Xuân Hãn. Chính nhờ hai thành quả này đạt được từ hơn nửa thế kỷ trước đây mà học sinh nước ta cho đến nay vẫn có được một nền tảng học vấn căn bản tương đối vững chắc không thua kém mấy so với thế giới bên ngoài (7).
Truyền thống tốt đẹp này cần được trân trọng đánh giá đúng mức,
mặc dầu hiện nay hãy còn quá nhiều bất cập trong cơ chế và quản lý, chương
trình học thuật, sách giáo khoa, cơ sở vật chất, lương bổng thầy cô giáo, học
phí. Sự lạc quan tương đối của tôi dựa trên nhận xét sau:
lương tâm và khả năng nghề nghiệp của đại đa số nhân viên giảng huấn,
lòng hy sinh vô hạn của phụ huynh học sinh, lại cộng thêm con em chăm chỉ hiếu
học. Ba nhân tố quyết định đó đã chống đỡ cho nền Trung và Tiểu học của dân tộc ta vững vàng mặc
cho vận nước nổi trôi, vượt qua khỏi mọi ý thức hệ chính trị nhất thời. Tóm lại
nhân sự ta đã sẵn mà chỉ thiếu cơ chế vận hành tối ưu. Rất có thể sự nghiệp cải
tiến những bất cập kể trên tuy khó khăn nhưng sẽ khởi nguồn từ dưới đi lên qua
xã hội công dân mà những blog internet dần dần thay thế báo chí chính quy trong
lòng người đọc là một tín hiệu đáng mừng.
4-
Khác với nền Trung học phác họa ở phần 3, vấn đề chất lượng Đại
học còn nghiêm trọng hơn nhiều vì ta thiếu cả hai bề, vừa nhân sự vế này, vừa
tư duy cơ chế quản lý vế kia. Đầu tiên là chuyện vàng thau lẫn lộn trong bộ máy
quản lý giáo dục, một số quan chức thực lực khoa học thì ít mà quyền lực lại
nhiều, tệ nạn này đã đưa đến bao nghịch cảnh làm nản lòng những tài năng trẻ
(8). Chưa thấy trong bất kỳ sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học nào của con
nguời với cơ chế tập trung khép kín, thiếu tự do, đua tranh và thông tin mà
không sớm muộn đưa đến những nghịch cảnh, cản đường cho sự phát triển toàn bộ.
Ngoài ra chúng ta chưa bao giờ xây dựng được ở Đại học một số lượng tới hạn của đội
ngũ thầy giảng dạy nghiên cứu chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế (9), vài
con én không làm nổi mùa xuân.
Hơn nữa chất lượng và khả năng chuyên môn cũng như luơng tâm đạo
đức của nhân sự chỉ là một khía cạnh của toàn diện vấn đề, dẫu tiên quyết đến
mấy nó chỉ là điều kiện cần nhưng còn xa mới đủ để
xây đắp nên một nền đại học-nghiên cứu có chất lượng cao, tuân theo những chuẩn
mực phổ quát, xứng đáng với khát vọng của dân tộc và sinh viên ta vốn hiếu học,
cầu tiến. Điều kiện đủ nói trên hàm ý mấy khía cạnh khác
cực kỳ quan trọng như quyết tâm cải tổ của bộ máy chính trị cầm quyền và sự
thay đổi hầu như toàn diện trong tư duy giáo dục, cơ chế và quản lý, không gian
học thuật, cơ sở vật chất và lương bổng nhà giáo.
Gần đây báo chí và mạng thông truyền tin trong và ngoài nước có
nói đến dự án chính phủ (10) đào tạo trong mười năm hai vạn tiến sĩ và xây dựng
một đại học lọt vào top 200 trên thế giới cho đến năm 2020. Trên nguyên tắc đó
là những dấu hiệu tích cực đáng trân trọng. Đào tạo tiến sĩ chất lượng cao theo
chuẩn mực quốc tế (11) không những để xây dựng sau này đội ngũ thầy giảng dạy
cho một đại học- nghiên cứu hoa tiêu lọt vào top 200 (12), mà hơn nữa những
tiến sĩ chất lượng cao vì được đào tạo bài bản chính là cái nôi cung ứng nhân
tài, những chuyên gia cao cấp cho công kỹ nghệ, kinh tế, tài chính, ngân hàng,
thương mại, quản trị doanh nghiệp, thậm chí cả văn học nghệ thuật, những ngành
nghề có khi chẳng ăn nhằm gì mấy đến cái luận án tiến sĩ ‘xịn’ ban đầu (13).
Xịn này sinh xịn kia há chẳng tự nhiên sao ? Cách đào tạo này có cái tên gọi là đào
tạo bởi con đường nghiên cứu mà càng ngày các nước
tiên tiến càng áp dụng.
1/ Chép mượn danh từ của Bùi Văn Nam Sơn.
2/ Xem Đặng Tiến và Nam Dao trên mạng Talawas theo thứ tự ngày
05/04/2007 và 12/04/2007.
3/Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, anh Thạc hay những chị trong đoàn Thanh
Niên Tiền Phong (phim Les oubliées de la piste Hồ Chí Minh của Laurence
Jourdan) là thí dụ trong muôn vàn trường hợp thương tâm của tuổi trẻ ngoài Bắc
lao vào chiến cuộc miền Nam với một niềm tin trong sáng lãng mạn. Cũng như
tình trạng bi thảm của nhân dân miền Nam diễn tả qua bài thơ ‘Ngày mai đi nhận
xác chồng’ của Lê Thị Ý, câu ca ‘Kỷ vật cho em’ của Phạm Duy & Linh Phương,
những bản nhạc phản chiến thức tỉnh tình người của Trịnh Công Sơn. Thực là
‘Phơi thây trăm họ nên công một người’.
4/ Ngân quỹ và nhân sự dành cho quân đội, công an bị Đồng Minh hạn
chế tối thiểu ở Tây Đức và Nhật là một nguyên nhân quan trọng khiến hai nước
bại trận này đã nhanh chóng trở lại phú cường về kinh tế, văn hoá. Đông Đức với
Stasi lại là chuyện khác (xin đọc Đỗ Tuyết Khanh trong http://www.diendan.org
về phim Das Leben der Anderen cười ra nước mắt với đoạn kết nhân hậu cực hay).
5/ Giáo sư Tạ Quang Bửu là một thí dụ điển hình đã can đảm chống
lại chính sách lý lịch thành phần trù diệt ‘trí phú địa hào’ và ông phải trả
giá. Nhân đọc bài
http://vietsosu.com/sosu/viewtopic.php?p=10645&highlight=ki%E1%BB%81u+chinh#10645
xiết bao cảm động, tôi cũng xin kể chút chuyện riêng tư : tháng
hai năm 1955 đang ở Hà Nội tràn đầy ảnh Mao ảnh Malenkov, gia đình tôi đã cảm
thấy cái không khí nén ép ‘mưa sa trên màu cờ đỏ’ của Cải cách ruộng đất và
Nhân Văn-Giai Phẩm bèn trốn đi Hải Phòng xuống tàu thủy vô Nam. Đến nơi ghi tên
vội lớp ‘toán đại cương’ ở đại học Sài Gòn, thấy bài giảng và nhân viên toàn
người Pháp kể cả giáo sư Phạm Tinh Quát (thân phụ của giáo sư Frédéric Pham,
bạn chí thân của nền toán học Việt Nam) đặc phái từ đại học Rennes sang. Cả
miền Nam từ Quảng Trị đến Cà Mau chỉ có duy nhất một lớp toán năm đầu này với
khoảng trăm sinh viên để thấy tình trạng sơ khai của nền đại học nước nhà thủa
ấy, ở ngoài Bắc cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Lại thêm thể thức thi cử bất cập,
quá ư khó khăn đến hơn 90% bị đánh trượt như thể cố tình làm thoái lòng người
học (khi sang Pháp du học năm 1956, tôi hay tin tình trạng bất cập này về sau
được khắc phục bởi giáo sư Đặng Đình Áng từ Mỹ trở về, ngoài ra ông còn hiện
đại hoá chương trình cử nhân giáo khoa toán). Năm sau lên lớp ‘cơ học thuần
túy’ chỉ còn lại dăm ba sinh viên trong đó tôi nhớ mãi khuôn mặt sáng sủa với
đôi kính cận gọng đen của anh Nguyễn Điền (con trai luật sư Nguyễn Long, một
nhân vật chống đối mạnh mẽ chính quyền miền Nam). Anh nhìn chúng tôi từ ngoài
Bắc vào với con mắt ít thiện cảm, sau anh tâm sự bảo tôi ngoài kia độc lập rồi
vô đây làm chi. Tôi không diễn tả nổi với anh ngoài kia chỉ vài tháng sau chiến
thắng Điện Biên nao nức lòng người, tôi đã cảm thấy có cái gì hao hao giống như
‘cái đêm hôm ấy …đêm gì’ không phải của Ôn Như Hầu mà của Phùng Gia Lộc rút tơ
lòng viết ra sau này, phải sống ở đó mới thấu. Trong năm bỗng nhiên anh
Điền
vắng mặt một thời gian, khi trở về lớp thấy anh xanh xao ghẻ lở,
hỏi ra mới biết anh bị giam giữ tra tấn. Khi sang Pháp tôi hay tin về sau anh
bị sát hại, chao ôi cái nọc độc của cuộc nội chiến đã manh nha từ thủa bấy giờ
! Mặc dầu gia đình tôi thuộc thành phần khả nghi (vì không rời Hà Nội ngay từ
hè 1954 mà ở lại Bắc, do đó thân phụ tôi một nhà giáo không được nhập ngạch
ngay mà phải đợi vài năm điều tra rồi giáng chức), cũng chẳng thuộc đảng Cần
Lao Nhân Vị và Công giáo thời thượng bấy giờ, nhưng phải thừa nhận công tâm của
chính quyền miền Nam, đặc biệt giáo sư Nguyễn Quang Trình viện trưởng đại học
Sài Gòn và sau này bộ trưởng giáo dục, trong việc chọn lọc sinh viên được học
bổng để du học ở ngoại quốc.
6/ Triết lý giáo dục công lập ở Pháp dựa trên hai nền tảng : nhà
trường thế tục và cộng hòa (école laique et républicaine). Nhà nước tôn trọng
và trung lập đối với mọi tín ngưỡng, chính kiến, tư tưởng, nhân sinh quan,
triết học. Nhà trường là nơi hòa chộn mọi thành phần, không phân biệt nguồn
gốc, chủng tộc, giai cấp xã hội của học sinh.
7 / Cho đến mực sau tú tài, tuyệt đại đa số học sinh ta khi ra
nước ngoài theo ngành cao đẳng hay đại học không mấy gặp khó khăn khi cập nhật
trình độ ngoại ngữ. Xin kể một giai thoại, năm 1956 anh ĐĐG vừa đậu tú tài ở
Sài Gòn sang Toulouse (Pháp) theo học một ‘trường lớn’ về kỹ sư. Tuy mới đầu
còn bập bẹ tiếng Pháp, hai năm sau anh lấy bằng cử nhân giáo khoa toán-lý mà
bình thường dân bản sứ phải mất bốn năm. Mà anh cũng chẳng phải ngoại lệ, nhiều
bạn anh cũng không thua. Chương trình giáo khoa trung học từ thời Hoàng Xuân
Hãn cho đến nay đại thể vẫn cập nhật với trào lưu tiến hóa toàn cầu.
8/ Một thí dụ là hội đồng quốc gia phong học hàm học vị giáo sư,
phó giáo sư với nhũng tiêu chuẩn kỳ lạ chưa thấy trong các nước tiên tiến nào.
Ngoài ra trong học trình của khoa học tự nhiên và kinh
tế có hai môn ‘học thuyết Mác Lê’ và ‘lịch sử Ðảng’. Nên coi môn trước
như một trong nhiều kiến thức chung của triết học nhân loại và môn sau như lồng
vào lịch sử thăng trầm của đất nước. Những môn này thiết tưởng chỉ nên dành cho
ngành khoa học nhân văn, xã hội hoặc để cho sinh viên tự chọn
theo nhu cầu, sở thích. Trong hồ sơ các sinh viên trong nước sang ghi tên du
học về ngành khoa học tự nhiên, hai môn kể trên có hệ số tính điểm khá cao
chẳng thua các hệ số về toán, lý, hoá, sinh, ngoại ngữ. Vì chuyện này, cũng như
nhiều bạn trên thế giới người viết bài đã mất công giải bầy với đồng nghiệp và
bộ máy hành chính của đại học mình khi họ xét hồ sơ tuyển chọn sinh viên Việt
Nam sang du học. Ðể so sánh công bằng với sinh viên các nước khác trong việc
tuyển chọn, hai môn ‘không khoa học tự nhiên’ này bị loại bỏ tự
động, làm lãng phí thời gian cho cả người dạy lẫn người học.
9/ Tiêu chuẩn quốc tế: ngày nay trên thế giới,
chuẩn mực phổ quát chất lượng cao của nhân viên giảng dạy-nghiên cứu ở đại học
được thể hiện qua vài nét chính sau đây: (a) công trình khoa học được
nhận đăng trên những tạp chí uy tín có hệ số tác động (impact
factor) cao. Trong mỗi ngành khoa học tự nhiên, tạp chí uy tín hàng đầu quốc tế
dĩ nhiên đều rất ít, chúng có hệ thống bình duyệt nghiêm túc, khắt khe hai ba
vòng biện và phản biện. Thí dụ trong vật lý không một nước nào riêng biệt ở Âu
châu như Ðức, Pháp, Ý… có một tạp chí quốc gia đủ uy tín hàng đầu quốc tế, họ
bèn liên kết thành tập đoàn tạp chí Âu châu như Physics Letter, Nuclear
Physics, European Physical Journal… cạnh tranh
với Physical Review Letters, Review of Modern Physics, Physical Review…
của Mỹ, Nature của Anh. Tiếng Anh đã từ lâu lắm rồi trở thành
ngôn ngữ khoa học chung cho những tạp chí quốc tế, nó còn thường xuyên được
dùng trong seminar, thậm chí luận án tiến sĩ ở những đại học chất lượng cao của
nhiều quốc gia phát triển; (b) số lần trích dẫn (citation
index) những công trình khoa học của mình bởi đồng nghiệp giảng dạy-nghiên cứu
trên khắp thế giới, mà đồng nghiệp cũng đồng thời là những người cạnh tranh ráo
riết để tìm thấy trước hoặc tốt hơn; (c) sách giáo trình lớp
cao học hay nghiên cứu chuyên đề, phát hành bởi các nhà xuất bản danh tiếng và
được chọn dùng trong nhiều đại học trên toàn cầu; (d) báo cáo trong
nhiều hội nghị quốc tế và sự cộng tác thường xuyên với những cơ quan giảng dạy
và nghiên cứu tiếng tăm trên thế giới; (e) sự nghiệp đào tạo nghiên
cứu sinh và tiến sĩ theo chuẩn mực quốc tế; (f) đối với các ngành khoa học ứng
dụng, văn bằng sáng chế và sự cộng tác với nhiều công
ty kỹ nghệ mang lợi nhuận cho cơ quan. Mấy đặc tính trên không những chỉ áp
dụng trong vật lý mà đại thể cũng tương tự trong các ngành khoa học tự nhiên
khác từ toán đến sinh học, ở trong nghề ai cũng rõ những điều kể trên.
10 /Theo http://moet.gov.vn/resources/eduportal/uploads/2007/tt11523
53CT2007.doc
11/ Về khoa học tự nhiên, ngày nay tiêu chuẩn phổ quát trên thế
giới của một tiến sĩ chất lượng cao là phải có công trình được nhận đăng trong
những tạp chí quốc tế, cụ thể tiếng Anh, với hệ thống bình duyệt nghiêm túc.
Trong mỗi ngành khoa học đều có những tạp chí uy tín với hệ số tác động cao,
loại top 10, top 20 mà ở trong nghề ai cũng biết chọn mặt gửi vàng. Thí dụ
trong vật lý, tạp chí có hệ số tác động cao nhất ngày nay là tờ Physical
Review Letters, bài được nhận đăng trên đó thường phản ảnh một giá trị đặc
biệt vững vàng. Tuy nhiên theo phụ chú 10, dự án đào tạo ở ngay trong nước một
ngàn nghiên cứu sinh chất lượng cao trong niên khoá 2007-2008 quả là một chuyện
vô khả thi trong hiện tình vì muốn thế ta cần có khoảng một ngàn giáo sư đủ
tiêu chuẩn quốc tế để hướng dẫn luận án, thế mà từ nhiều năm nay các công trình
khoa học trong nước được đăng trên những tạp chí quốc tế không vượt quá vài
trăm !
12/ Xây dựng một đội ngũ mới nhân viên giảng
dạy-nghiên cứu của trường đại học này là điều kiện tiên quyết theo thiển ý. Đội
ngũ này phải xuất thân chính yếu từ những tiến sĩ chất lượng cao theo chuẩn mực
quốc tế (phụ chú 11) mà chính phủ dự tính đào tạo trong muời năm. Điều nên lưu
ý là trình luận án xong, họ cần thay đổi môi trường trong một thời gian thường
là hai ba năm hậu tiến sĩ (postdoc) để phấn đấu vượt lên nữa cho đạt tới mức
sáng tạo độc lập, chín chắn, thanh lọc, tranh đua gay gắt nhưng lành mạnh với
đồng nghiệp năm châu lấy một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tiến sĩ chỉ là bước
đầu trên con đường dài lắm chông gai để thành thầy ở đại học chất lượng quốc tế
mà ta muốn xây đắp ở Việt Nam. Tôi tâm đắc với câu sau đây của giáo sư Phạm Duy
Hiển: "Nếu mang những mảnh bằng tiến sĩ về trình làng mà đất nước không
tạo điều kiện để họ tiếp tục nghiên cứu khoa học, duy trì quan hệ quốc tế,
trưởng thành lên theo chuyên ngành của mình để còn đào tạo ra những ê kíp mới,
thì chẳng khác nào đem toàn bộ tiền của đổ xuống song xuống biển". Không
ít những tiến sĩ được đào tạo bài bản ở ngoại quốc, khi về nước đã không đuợc
ứng xử xứng đáng, hãy còn gặp nhiều khó khăn để tiếp tục làm việc tốt.
Sự tự chủ trong cơ chế vận hành, trong không gian học thuật, kèm
thêm cơ sở vật chất, thiết bị, ngân quỹ là điều kiện tiên quyết thứ hai để đội
ngũ mới nhân viên giảng dạy-nghiên cứu nói trên đảm nhiệm trách vụ nặng nề
nhưng biết bao vinh dự xây dựng được một đại học lọt vào top 200 cho đất nước.
13/ Ở Pháp khoảng hơn 90% tiến sĩ về vật lý lý thuyết sau khi
trình xong luận án, ra làm việc ngoài phạm vi giáo dục, đại học hay nghiên cứu
cơ bản. Xin kể thí dụ một sinh viên Việt NXS ở Hà Nội sau khi được tuyển chọn
sang Pháp theo học trường Bách Khoa Paris rồi làm xong luận án tiến sĩ lý
thuyết trường lượng tử, anh đi học lại lớp Master 2 (cao học) về toán tài
chính, sau đó sang làm việc trader ở City London với lương bổng gấp vài ba lần
các giáo sư Pháp đào tạo anh.
.....
[*] Bài viết tháng 10 năm 2007, trích từ cuốn Kỷ Yếu Sĩ
Phu Thời Nay (nxb Tri Thức 2008) kính mừng sinh nhật 80 năm của GS
Hoàng Tụy.