Ngày nay tôi không còn nghĩ như những điều tôi ghi từ gần ba chục năm trước.
Và cũng như mọi người tôi đành bất lực không kiểm chứng được
những sự kiện mà tôi đã đề cập tới.
Nhưng đến bây giờ tôi vẫn nhớ rằng khi ghi những dòng dưới đây,
lòng tôi trong sáng và chỉ viết ra để làm tài liệu cho mình
chứ không hề nghĩ là có lúc sẽ được chia sẻ.
Mong được các đồng nghiệp và bạn đọc thân mến
coi đây như những tài liệu tham khảo
Và cũng như mọi người tôi đành bất lực không kiểm chứng được
những sự kiện mà tôi đã đề cập tới.
Nhưng đến bây giờ tôi vẫn nhớ rằng khi ghi những dòng dưới đây,
lòng tôi trong sáng và chỉ viết ra để làm tài liệu cho mình
chứ không hề nghĩ là có lúc sẽ được chia sẻ.
Mong được các đồng nghiệp và bạn đọc thân mến
coi đây như những tài liệu tham khảo
2-7
Đọc
bài của Phan Ngọc viết về Trần Đình Hượu trên Văn nghệ thấy đó không
phải là ông Hượu như tôi biết, mà đó là ông Hượu của Phan Ngọc, cái phía giống
như Phan Ngọc của Hượu. Mà qua đấy, cũng cho thấy một quan niệm về trí thức của
Phan Ngọc.
Nhân đây, thử phác hoạ chân dung một loại trí
thức.
Do
những nguyên cớ như thế nào đó, họ cũng không được nhà nước trọng dụng (không
hẳn đã là vì tư tưởng, mà có khi chỉ vì đố kị hoặc nói chung, một thứ tai nạn
nào đó). Quay về riêng tư, họ xây dựng một thứ triều đình riêng, tự phong tước
cho mình. Nhân danh kẻ thất bại - mà lại kẻ thất bại có tài - họ trở nên nghiệt
ngã: ta mới là kẻ nắm chân lý. Đôi khi, thao tác của họ rất đơn giản, chỉ đại
khái tôi đã đọc được một ngàn quyển sách, vậy thì dứt khoát tôi phải hơn anh kẻ
mới đọc đâu có năm trăm quyển.
Thế
mà cũng gọi là kẻ trí thức “đúng nghĩa” ư? Riêng cho chưa chắc. Người trí thức chỉ nghĩ đến sự
hoàn thiện mình, cái điều mình nghĩ chưa ra, cái điều mình chưa nhận thức nổi,
chứ không nghĩ nhiều đến sự "hơn hẳn người khác" "tìm ra cách đi
cách làm việc khôn ngoan khéo léo hơn người khác", và do đó, “đến lúc nào
đó sẽ được giá hơn người khác".
4-7
Bữa
nọ, nhân ngày 21-6, một phóng viên hỏi: những đổi mới của báo chí bắt đầu từ
đâu? Tôi cho là bắt đầu từ chỗ báo ra nhiều hơn. Có sự cạnh tranh. Từng tờ báo
có nhu cầu làm hay hơn, người ta mới mua.
Tuy
nhiên, cũng chính chuyện số lượng lại là ám ảnh lớn nhất về văn hoá -- chúng ta
chỉ có một nền văn hoá số lượng. Cũng như sách. Sách ra có nhiều hơn trước,
nhưng không có quyển nào đọng lại được lâu trong tâm trí độc giả. Không có gì
buồn bằng thấy những quyển sách bìa đẹp, giấy trắng, in ấn hiện đại, mà bên
trong đầy lỗi về câu chữ, và đọc vài trang lại phải nhăn mặt vì thấy tác giả
viết ẩu.
Lại
càng buồn hơn, nếu thấy cùng một lúc trong cửa hàng thấy bày mấy quyển sách của
tác giả mình đang ngán đó, và trông vào bảng kê cùng một tác giả, thấy ông ta
đã cho in ra tới vài chục đầu sách.
Cái
nét chính của văn hóa hiện nay là pha tạp, thiếu sự thuần khiết.
Tôi
nhớ không nguôi những năm tháng thanh bình ở Hà Nội từ sau 1954-1965, cái thời
mà mọi thứ nền nếp, bát phở ra bát phở, trang báo ra trang báo, và -- trong sự
cổ lỗ của kỹ thuật lúc ấy --, người ta
yêu cầu rất cao về nhau.
Lùi
về xa nữa, lại nhớ nếp sống của các gia đình Hà Nội thời xưa - bát nước luộc
rau có váng tí mỡ là không được, ra đường không tề chỉnh là không đuợc. Ai đó
viết về bà cả Tam: ăn uống thanh đạm nhưng rất kỹ. Còn phải là cơm chín tới,
dưa muối phải ngấu, cà phải trắng lại phải dòn. Thời bây giờ thêm ra bao thứ
tiện nghi, nhưng con người không bao giờ biết sống kỹ, và trọng cái sự kỹ lưỡng
như xưa. Mà đó lại chính là văn hoá.
6-7
Thỉnh
thoảng đến thư viện, thấy có người hí húi đọc sách viết bằng chữ Hán. Mà nhìn
kỹ lại là những cô cậu ăn mặc rất mô đen, tôi cứ ngạc nhiên. Trong tiềm thức,
chỉ nghĩ chữ Hán, là thuộc về những cụ già, như ông Bùi Hạnh Cẩn kia. Suốt một
thời lớn lên, từ khoảng 1966-68 đến nay, không ai học Trung văn. Phần thì tại
bên Bắc Kinh có chuyện cách mạng văn hoá. Phần thì, về sau hai nước không trao
đổi sách báo với nhau. Chữ Hán trở thành xa lạ ngay trước mắt, và kéo dài suốt
cả một thời trai trẻ của tôi.
Ngạc
nhiên xong, thấy hơi buồn. Trước hết là buồn cho bản thân. Lúc đi học, tôi khá
Trung văn. Năm ấy, giá biết rằng không đỗ vào đại học Tổng hợp văn, thì đã xin đi học Trung văn từ đầu.Với ai, tôi
cũng bảo: Người Việt Nam mà học ngoại ngữ, chính ra cứ học Trung văn là dễ
nhất. Nhưng trước hết nó rất cần. Để ta hiểu ta. Để ta - qua sự trung gian của Trung Hoa - hiểu thế
giới.
Kể
ra, cũng có một sự kiện khác đang an ủi
tôi: hầu như trên T.V. luôn có phim Tàu. Không của Đài truyền hình TW
thì của Đài Hà Nội. Và vợ con tôi hết mê mẩn Khát vọng, Người Bắc Kinh ở New
York lại say sưa bàn nhau về Võ Tắc Thiên với Phong lưu hoàng
hậu.
Cái
bi đát của dân mình là ở chỗ, vừa là Tàu, vừa không phải là Tàu. Mà cái vui
cũng là ở đấy.
10-7
Buổi
sáng như thường lệ, đến cơ quan, nhưng hôm nay khốn khổ, tôi không biết tìm đâu
ra một chỗ của mình.
Ở phòng này Phan Cự Đệ nói chuyện với Hách ở
phòng kia, ngồi một tí, thì Hoàng Ngọc Hiến đến.
Phan
Cự Đệ mới đi Anh về, đến tìm Thái Bá Tân không gặp, nên nói chuyện với Hách.
Cái điều cuối cùng mà Hách kể với mình là ông Đệ bảo bọn Anh nó bảo thủ lắm, ở
khách sạn 20 ngày, thì nó cho mình ăn 20 bữa ăn sáng y hệt nhau.
Hoàng
Ngọc Hiến đến, để hỏi hộ cô Nguyệt Cầm về một bản dịch. Cầm sắp theo chồng đi Mỹ. Và thế là mấy người sắp đi Mỹ, gặp nhau ở đây, cả Hoàng
Ngọc Hiến và Lê Minh Khuê. Anh Hiến được một tờ tạp chí là Việt Nam
génétration mời. Hiến bảo bọn này hay lắm. Có đi thì giữa tháng chín. Còn
Khuê được một nhà xuất bản ở Mỹ mời, hứa hẹn là sẽ cho Khuê đi khắp nước Mỹ.
Hình như là lần trước Khuê có gặp Trương Vũ, Hiến hỏi. Vâng em đã gặp rồi, anh
Trương Vũ dễ chịu lắm, Khuê xác nhận, em đã ăn cơm ở nhà anh ấy. Một người Việt
Nam rất dễ chịu đấy, anh ấy đã gọi điện thoại cho tôi dù chúng tôi chưa gặp
nhau, Hiến nói thêm.
Đến
khi Khuê nói rằng sang Mỹ tốn kém lắm, chỉ được đi chơi chứ không được tiền gì
cả, thì may quá, có người gọi tôi. Ông Phú bảo tôi biên tập hộ cuốn Đền Hùng.
Tưởng là thoát. Ai ngờ lúc đứng gần bàn Phú, lại thấy có lá thư của Đại sứ quán
Pháp. Ngày 14-7 sắp tới rồi, chắc là giấy mời Phú đến gặp mặt ở Đại sứ quán
Pháp. Tôi buồn bã mà nghĩ rằng bên cái thế giới tiền nong ở gia đình, cái thế
giới quan chức của Hữu Thỉnh bên kia,
thì đây lại là cái thế giới khác, thế giới của phương Tây, nhiều bè bạn và
người tôi quen đang bước ra thế giới này. Mà tôi, ở cả hai, tôi đều không tìm
thấy chỗ đứng. Lòng không khỏi có chút xót xa. Người ta đi hội cả, còn mình,
mình như cô Tấm phải ngồi nhặt thóc với sỏi ở nhà, bảo sao không buồn cho được.
12-7
Hôm nay, ngày Hà Nội tiễn đưa tác giả Tiến quân ca.
Đám ma ai cũng bảo to chưa từng có, 900 vòng hoa (có số liệu 700).
Ông
Văn Cao, mất đâu sáng 10-7. Tối hôm ấy, tôi đã gọi điện cho Hữu
Vinh, bảo là nên chuẩn bị bài đi. HV nhờ Dương Tường, không được, nhờ Thái Bá
Vân cũng không được các ông đã có nơi
đặt bài cả. Sáng 11-7, đến toà soạn TTVH,
đã thấy có mấy người đưa bài và đưa ảnh đến, Hữu Vinh bồn chồn phần vì
lắm bài quá, phần không có bài ưng ý. Mấy ngày này nắng dữ, vậy mà vẫn như dự
đoán, đám ma to lắm.
Không
phải lo làm tin cho TTVH, tôi tự thấy không việc gì phải đến viếng Văn Cao cả.
Bởi đương thời đâu có quen ông, nào đã một lần nói chuyện riêng với ông. Mà một
lẽ nữa, lại được nghe quá nhiều chuyện không hay về ông già khôn ngoan này. Mười năm trở lại đây,
trong số những người được phục hồi (sau Nhân văn) có lẽ Văn Cao là loại
kiếm bẫm nhất. Nước ngoài có, Việt kiều có, rất nhiều người cung đốn ông như
một thứ lương tâm thời đại. Song , chỉ một Hoàng Cầm thôi, đã kể bao chuyện
nhảm về Văn Cao. Văn Cao xoay lùng đô la ở cánh Việt kiều. Văn Cao xin từng cái
cát - xét. Lê Đạt thì kể rằng Văn Cao đâu có biết chơi pianô, ảnh chụp tác giả
Sông Lô lụ khụ bên pianô chỉ là làm dáng. Sáng qua 11-7 tôi đã phải hỏi lại cái sự lộ bem này.
Lê Đạt gật gù:
-
Đúng thế chứ còn gì nữa, không biết đánh pianô, còn dùng pianô để nghe lại một
vài âm thì không nói làm gì.
-
Còn chuyện anh từ ông ta?
-
Nó là do bà Băng. Bà Băng nói với ai đó, rằng Trần Dần, Lê Đạt cứ tụ bạ quanh
quẩn ở chỗ Văn Cao, chứ anh Văn đâu có chơi với họ. Thế là hôm ấy, mình phải
bảo: "Hôm nay có mặt cả anh chị đây, tôi phải nói cho rành rọt. Năm ấy anh
Văn Cao đâu có nổi tiếng bằng chúng tôi, chẳng qua chúng tôi thương anh ấy mà
đi lên. Bây giờ chị đã bảo thế, thì tôi cũng nói luôn: Bao giờ Văn Cao mất, thì
tôi, Lê Đạt, sẽ đi đưa ma. Còn từ nay thì thôi không đến đây nữa…”
Bản
thân tôi (VTN) có lần được chứng kiến một cảnh không ra sao cả. Ông Lê Bá Đảng
ở Pháp về, gặp mặt một số anh em tại nhà Nguyễn Hào Hải. Loại như tôi, hoặc Lê
Xuân Sơn, thì chả nói làm gì. Nhưng buổi đó còn có cả Hoàng Cầm. Vậy mà, ở cái
bàn chính của gia đình Nguyễn Hào Hải, Văn Cao cứ ngồi nói chuyện tay đôi với
Lê Bá Đảng, bên cạnh có bà vợ, còn Hoàng Cầm cứ chầu rìa ở hàng ngoài, bên cánh
nhọ đít chúng tôi. Có chút gì không phải, bạn bè với nhau sao lại làm thế, giá
như người khác thì phải bảo vợ né ra mà mời Hoàng Cầm ngồi cạnh cùng bàn về
nghề, như thế mới hợp lẽ chứ. Theo tôi lần ấy, Văn Cao cư xử thiếu hẳn cái thứ
lễ nghĩa tối thiểu mà ông cha ta vẫn dạy bảo vợ con ở nhà, chứ đừng nói là văn
hoá Tây Tàu gì nữa. Nhiều lần người ta đã kêu cách cư xử khó chịu của bà Băng,
vợ Văn Cao. Nhưng cả Hoàng Cầm và Lê Đạt đều nói:
-
Thằng Văn Cao nó phải cho phép, chứ không thì bố bảo, vợ nó cũng không dám làm.
Theo
Lê Đạt, về con người Văn Cao chỉ được cái mũi quí tướng. Còn Vũ Cao VNQĐ -- tôi
nhớ Vũ Cao đâu người cùng quê với Văn Cao - đã nói với tôi một câu như gọi ra
cái thần con người Văn Cao: "Đấy đúng là một nghệ sĩ Việt Nam tiêu biểu.
Không cái gì đến nơi đến chốn, nhưng gì cũng biết một tí, mà làm gì, cũng mang
được sắc thái riêng của mình vào cũng có – một cái gì đó, làm cho người ta nhớ
mãi".
Phần
tôi, nếu phải viết về Văn Cao, tôi sẽ nói rằng ông mang văn hoá Việt Nam trong
thế kỷ này, bao gồm cả hai chặng đường, chặng đầu là cuộc biến đổi về chất (Âu
hoá) và chặng sau, là một cơn bột phát (cách mạng). Nhưng trong cả hai sự biến
đổi đó, người nghệ sĩ Việt Nam chỉ là một thứ sản phẩm của hoàn cảnh, chứ không
phải kẻ góp phần thay đổi hoàn cảnh. Chắc là thế, không đúng cả cũng đúng một
phần.
20-7
Một
vài chuyện vặt.
Ông
Nguyên Ngọc đi làm phim Tây Nguyên, Đất nước đứng lên. Nghe nói là ông
rất hào hứng, và vẫn mê Tây Nguyên như thường. Ông còn có cả một triển lãm ảnh
về phong cảnh và con người Tây Nguyên nữa.
Tôi
thì nghĩ: giá nhân dịp này, ông ta soát
xét lại mình. Ngọc hay bảo là hôm qua ông ta mê muội, chứ thực tế, nó đâu có
phải như ông đã viết. Nhưng cái ông ta làm hôm nay lại không hề thoát sự mê
muội ấy.
Có
một mẩu chuyện vui vui, một đạo diễn
phim, giữa đợt công tác, đi mò gái, bị làng bắt, họ định trị tội nặng lắm. Nguyên
Ngọc phải nhờ anh hùng Núp xin cho, mua một con trâu, mời cả làng đến xin lỗi
mới thôi.
Nhiều
lần, Nguyễn Kiên tâm sự, trông ông Tô Hoài viết
Cát bụi chân ai mà tức, mình cũng một bồ truyện, mà sao không
viết ra nổi.
Lần
này, nhân trò chuyện việc Kiên về hưu, tôi bảo:
-
Ông đừng tính chuyện viết về thời bây giờ, nào lại giám đốc ngủ với con mẹ kế
toán ra sao, nào ăn cướp ăn cắp ra sao. Khải còn viết tàm tạm được, vì ở lão ấy
còn có lòng căm hờn. Chứ anh không có. Theo tôi, tốt hơn hết, bây giờ anh nên
viết lại chuyện hồi ấy hợp tác đánh kẻng đi làm ra sao, chia thóc ra sao, không
cần chửi bới cứ nói năng cho mạch lạc rõ ràng là có truyện rồi.
Nhưng
mà cả một người như Lê Đạt, đọc nhiều thế, hoạn nạn thế, khoẻ thế, cũng có cái
vớ vẩn của nó.
Từ
lâu rồi, 1-2 năm nay, thấy Lê Đạt được cánh Hữu Mai sử dụng, tôi đã có ý nghi
ngờ, khéo Lê Đạt làm một thứ van xì cho cơ chế cũ.
Thì
đây, Dương Thu Hương cũng nói thế.
Nguyên
là lâu nay, Lê Đạt cứ tỏ cho mình thấy Lê Đạt đang là một thứ huấn luyện viên
của H. một thứ người có thể hướng dẫn cho nghề văn của H. Khi tôi vừa bảo H.
bây giờ nên viết hồi ký, thì Lê Đạt nói ngay, viết rồi còn gì . Tuyệt lắm, Lê Đạt nói thêm, với ngụ ý mình đã bảo H. chứ
còn ai khác.
Ngồi
bên H. ở quán cà phê, H. xổ ra với tôi một thôi một hồi đủ các thứ chuyện,
trong đó có cái chuyện nói trên.
-
Hôm Đại hội nhà văn, tôi đã bảo ông ấy rồi, anh làm gì mà dạy dỗ to mồm thế.
Anh cũng đi với cánh thằng Thỉnh, nó phải đưa xe đến đón anh, thế nghĩa là anh
ăn lộc của nó rồi, thì anh còn dương dương tự đắc, dạy bảo mấy người ở đây làm
gì?
25-7
Nhân
sự kiện Văn Cao qua đời, báo chí hầu như tờ nào cũng có bài viết về ông, và rất
nhiều bài có cái ý đáng đọc. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy nói chung bài viết
ngay sau khi một người qua đời, là những bài xưng tụng. Ít ai nói được thực
chất của con người ấy. Người ta lấy cái không khí trước mắt, để che đậy cho cái
phần dễ dãi không dám đối mặt với sự thực của mình, không dám tiếp tục đào sâu
vào ý nghĩa thật của kiếp nhân sinh.
Những
huyền thoại được hình thành và luân chuyển từ cửa miệng này sang cửa miệng khác
đại khái như thế.
Thế
còn giải những huyền thoại ấy chăng? Ai làm bây giờ? Huyền thoại chỉ được hình
thành một cách ngẫu nhiên, chả ai định, mỗi người góp một đôi câu, như mỗi
người góp một viên gạch, cứ thế mà thành. Còn giải huyền thoại là công việc của
từng cá nhân, mỗi người đơn độc trong công việc của mình. Như những nỗ lực mà
tôi bỏ ra khi đi tìm bộ mặt thật của NguyễnTuân, của Xuân Diệu bây giờ. Có khi
là chết, mà vẫn chưa tổ chức được ý nghĩ của mình thành một thực thể trọn vẹn
đủ sức thuyết phục cái đám đông nông nổi và cuồng tín kia.
Trong
khi đó thì huyền thoại vẫn hình thành từng ngày một. Đây là trường hợp Vũ Cao
là người tôi từng làm việc dưới quyền gần ba chục năm .
Liên
tục hai lần, chủ nhật 16-7 va thứ hai 24-7, trên chương trình TV có chiếu hai bộ phim về Vũ
Cao. Và người ta dành cho ông những lời lẽ tốt đẹp nhất trong khi, gần như chỉ
có một bài thơ được nhắc lại, là bài Núi Đôi.
Từ
lâu, đã có ý nghĩ sau, và càng ngày, tôi càng tin rằng mình nghĩ đúng: với tất
cả sự kính trọng, tôi vẫn cho rằng Vũ Cao chưa phải là một nghệ sĩ theo nghĩa
hiện đại của chữ ấy. Đó mang phần nhiều những nét lãng tử nghệ nhân, ngoài công
việc chính của một cán bộ chính trị, làm ít bài thơ cho vui. Thứ thơ này dễ
dàng gần như dễ dãi. Nó nằm ngoài quy luật của văn học chuyên nghiệp. Bản thân
Vũ Cao cũng lạ, một mặt là một trí thức trung thực, ham đọc sách, mặt khác là
một kẻ thích dong chơi, và có phần lạc bước vào nghệ thuật. Vậy mà bao giờ cái
sự thật ấy về Vũ Cao mới được nói ra rành mạch? Xa xôi quá!
19/9
Dạo này, cuộc sống văn học có cái gì đó, chịu không
nổi. “Nó” có tiền. “Nó” làm ầm ĩ những
chuyện như giải thưởng, trong khi đó, không hề bàn tới văn học thực sự.
Lúc nào cũng chỉ nói tới phong trào này phong trào nọ.
Nhà văn gì mà, không bao giờ thấy nói tới tác phẩm,
không biết viết gì, chỉ thấy chức vụ.
Đầu tháng 6, hội thảo 50 năm học Việt Nam sau cách
mạng tháng 8, hình như không được vui vẻ cho lắm.
Có bài của Ân, làm cho họ cảnh giác, hình như tổ chức
không được chặt chẽ.
Lần này, họp kín, họp hở, bàn nhau rất kỹ, là sẽ cho
ai viết và ai không viết, ai được lên diễn đàn, và ai không được lên.
23-9
Nói
sợ hãi thì cũng hơi quá. Song đôi lúc tôi vẫn không hiểu sao thời gian đi nhanh
đến vậy. Năm nay, đã là năm 1995, còn 5 năm nữa, đến năm 2000. Và vào những
ngày này, đất nước vừa kỷ niệm 50 năm cách mạng. Ghê thật! Nếu tính từ lúc tôi
biết đến nay, thì thời điểm đáng nhớ nhất là năm 1960.
Khi
đó, tôi 18 tuổi. Khi đó, bọn tôi đã chứng kiến nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
15 tuổi, đã sống trong cái không khí thanh bình của một xã hội thịnh vượng. Và
tưởng là muôn đời vẫn vậy.
35
năm qua, nói là có cũng đúng, mà nói là không cũng đúng.
Có
35 năm ấy thật chứ. Có cuộc kháng chiến chống Mỹ mà tôi đã trải qua. Trong văn
học, có một thứ sáng tác mà người ta chưa biết. Có lớp người chúng tôi mà người ta gọi là thế hệ trẻ.
Với
tôi, có sự gặp gỡ với các bạn văn, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Bằng
Việt... người nào trong bọn ấy bây giờ cũng đã có sự nghiệp riêng, và gia đình đề
huề .
Đã
có những ngày đi chơi dông dài.
Đã
có cãi vã.
Đã
có những vui buồn, khi quá đáng, lúc tầm thường.
Và
đã có cả những cái chết nữa.
Nhưng
thử nghĩ lại xem, bọn tôi đã có gì là hơn, có gì gọi là sống? Chưa có gì cả.
Như
thế này mà là sống ư? Toàn là những lê lết mà đi, ngán ngẩm mà xúc động, buồn
bã mà nghĩ lại mọi chuyện.
Người
thì đông lên, mà cái chất người thì lại sút giảm.
Cũng
như văn chương, lúc này đây, người ta làm ra bao nhiêu thứ, mà tôi vẫn cảm thấy
như đang sống trong hoang mạc, không có gì khiến tôi yêu mến bằng một tình yêu
lâu dài cả.
Mấy
hôm nữa (ngày kia 26-9?) đã hội nghị 50 năm văn học cách mạng. Tôi định không
đi, bởi đi mà làm gì, chả có báo cáo nào nên hồn, chả có ai nổi lên xuất sắc.
Có
lẽ là tại tôi chăng? Chẳng có gì làm tôi ngạc nhiên, nghĩa là tôi đã bị tê
cứng, bị chai sạn đi? Đồng ý, tôi nhận cái phần già đi của mình.
Nhưng
hình như, một phần khác làm tôi ngán ngẩm vô chừng. Ấy là tình trạng mọi thứ
ngưng đọng, mọi thứ nhàu nát bụi bậm, mọi thứ không đến đầu đến đũa, và không
mang lại cho tôi niềm ngạc nhiên, cùng sự hứng khởi.
8/10
Tự nhiên, những ngày này 13-9, 20-9, 27-9 Báo Công
an thành phố Hồ Chí Minh có hàng loạt bài phỏng vấn vụ Bảo Ninh, để các
giám khảo cũ sám hối. Và người ta cứ nói, sưng sưng đại loại (như Nguyễn Quang
Sáng) “thế là chúng tôi bị ăn đòn của nhân dân.” Nhưng làm gì có nhân dân nào ở
đây, mà chỉ có bộ máy thống trị.
Lạ một điều trước cuộc hội
thảo Nửa thế kỷ văn học người ta lúc nào cũng sợ là có nhiều ý kiến ngược.
Nhưng đến khi xem lại bài
vở, thì lại giật mình là các ý kiến giống nhau quá, không có màu sắc riêng. Khốn
nạn, vừa thích ổn định thống nhất , vừa ra cái điều dân chủ, thì còn ra làm sao
nữa.
Người đi nước ngoài khá rôm
rả:
- Ý Nhi, Vàng Anh đi Pháp.
- Nguyễn Duy, Chu Lai, Cao Tiến
Lê đi Mỹ.
- Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái
đi Mỹ.
- Sắp tới Bảo Ninh đi Đan
Mạch
- Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma
Văn Kháng có giấy mời của ... Đại học Provence.
Người ta không thể nghĩ
trước những chuyện này quá nhiều, vì người ta biết rằng, trong thời buổi này có
những chuyện hỗn hào “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, thôi cứ kệ nó, đến đâu
thì đến.
4/11
Ông Tế Hanh kể ông Nguyễn
Đình Thi, được bầu làm chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam đang
dựng ê kíp. “Cách” các chức sắc lâu nay
vẫn làm là Vũ Duy Thông (tờ Diễn đàn văn nghệ) đưa Hồ Phương về thay làm
tổng biên tập. Con Nguyễn Đình Thi là Nguyễn Đình Chính về làm phó Tổng biên
tập, kiêm thư ký toà soạn.
Định lập ra cả nhà xuất bản
của Hội liên hiệp. Cái ông Thi này bao giờ cũng như vậy. Mới thì hăng lắm. Sau
lại thôi, kệ mọi chuyện.
Sau khi Văn Cao chết nghe Dương Phương Vinh kể
là Nguyễn Thuỵ Kha lại tổ chức đêm thơ vợ Văn Cao
Đoàn Phú Tứ, sau mấy năm
chết, không ai biết, giờ được ông Văn Tâm đưa lên, như một nhân vật … của thời đại. Rồi trên báo Lao động, Thuỵ Kha
lại ca ngợi Đoàn Phú Tứ như một tấm gương tiền chiến.
Tôi thấy hơi buồn cười.
Người ta không thể nghĩ ra cách quan hệ khác đi giữa người và người hay sao?
Người ta không thể đặt đúng
địa vị một người hay sao?
Ông Tô Hoài kể về Đoàn Phú Tứ rằng ai có muốn
thuê người đòi nợ, cứ đến tìm Đoàn Phú Tứ, ông ta có khả năng nằm lì ở nhà người
khác, đến bao giờ đòi được nợ mới thôi.
Tế Hanh kể, ông ta thường
hay xin tiền mọi người.
Sau giải phóng Sài Gòn, ông
ta vào thăm bà con bạn bè song bao nhiêu lần người ta đưa tiền cho ông mua vé,
ông đều tiêu hết rồi ở lại. Phải nghĩ ra cách mua vé cho ông và đèo ông thẳng
từ nhà ra ga rồi tất cả công kênh ông vào toa, chờ tàu chạy mới thôi. Về sáng
tác theo Tế Hanh, kịch Trở về không phải là của Đoàn Phú Tứ mà là của Lê
Ngọc Cầu. Ông này đi học lớp văn nghệ Thanh Hoá, sáng tác xong thì vào khu V
kịch bản rơi vào tay Đoàn Phú Tứ, Tứ nhận là của mình. Sau Lê Ngọc Cầu có kiện.
Một người như Nguyễn Xuân
Sanh có biết, song thường hay lảng đi, “bảo vệ” bạn.
Tôi nghĩ đến một lớp VNS
nói chung, tài hoa, nhưng trong đó có
những người hèn hạ, nhếch nhác, người ở lẫn vào cây cỏ.
Những mẩu chuyện của Nguyễn Đình Nghi
- Các anh cứ bảo ông Thi
kiêu nhưng gặp tôi, ông ấy không kiêu. Một người viết được Nguyễn Trãi có cái
ghê lắm chứ. Thời gian dựng thường ông ấy ngồi bàn với tôi từng ý một. Anh có
biết, theo ý ông Thi, thì cái gì làm nên chiến thắng của Lê Lợi - Nguyễn Trãi
không. Nó là ở cái ý này: Nếu mà lần này mất nước nữa, thì tức là lại mất nghìn
năm bắc thuộc nữa.
Đấy, cái khác của Nguyễn
Trãi với mọi người là ở chỗ ấy. Là ở chỗ ông ta chú ý đến văn hoá, nhìn dân tộc
ta như một dân tộc có văn hoá.
(Nên nhớ, đến triều Minh
mới có chuyện quân xâm lược đập phá các bia đá, các hoành phi câu đối, và tất
cả những gì có chữ Hán).
-Về Phan Ngọc. Ông thử
tưởng tượng một người tài như thế, thông minh như thế mà bị đòn đau như thế.
Người ta phải nghĩ ra kế để tồn tại. Không tội gì mà dây với lửa nữa. Tránh voi
chẳng xấu mặt nào. Thế là từ đó ông ấy sinh ra ăn nói như thế, trong khi vẫn
phải làm như điên mà sống, vẫn phải suy nghĩ.
Bây giờ ông Ngọc nói thế
này tài quá còn gì. Nói văn hoá văn nghệ như văn hoá xe đạp, ta chẳng nghĩ ra
điều gì, nhưng ta hiểu hết tác dụng của nó, ta dùng nó để chuyên chở hàng tạ
gạo, đến mức thế giới nó phải kinh ngạc.
21-11
Có giấy mời đi họp: ngày mai tạp chí Văn
học nước ngoài của Hội trình bày những gì mà họ định in trong số một.
Không
biết tôi có thể làm gì cho họ. Lâu nay tôi đã quá bận về những vấn đề văn học
trong nước.Tuy nhiên, trong bụng cứ bồn chồn bởi những điều hiển nhiên, mà lẽ
ra ai cũng thấy và lẩn tránh. Và ẩn đằng sau đó, là một bi quan, tuyệt vọng.
Mỗi
lần nhớ tới Nguyễn Minh Châu, tôi thường nghĩ ngay đến quyển Tấc đất mà
ông giấu trong ngăn bàn, và thỉnh thoảng lại giở ra xem, lấy hơi, khi viết Dấu
chân người lính. Đã có một thời, bọn tôi sống chui sống nhủi vậy đấy. Sợ
tất cả những gì ở bên ngoài người ta viết. Phải cố tách ra, không muốn giống
mọi người. Để làm gì ư? Để còn yên lòng mà đánh nhau.
Trong
hoàn cảnh ấy, để có thể làm nghề được, tôi đã phải học tiếng Nga, tự bồi bổ
thêm kiến thức, mà cũng là trổ một cái cửa, để nhìn thế giới.
Còn
nhớ một lần, được ông Thi gọi ra, ý muốn giao cho tôi dịch một ít tài liệu văn
học. Tôi đã sướng rơn lên khiến lúc trở về, ông Khải chế giễu mãi.
Nhưng
cái ông Thi ấy, đã phản bội chúng tôi, phản bội cả thế hệ tôi. Mỗi lần, nghe có
người đề nghị là phải làm văn học nước ngoài, Nguyễn Đình Thi lại gạt đi, là
bây giờ chưa đến lúc cần đặt những vấn đề như thế.
Kết
quả là sao? Kết quả là người viết văn Việt Nam, mấy chục năm qua, lơ mơ tự mình
kéo mình đi trong đêm tối. Văn học Pháp, văn học Tây Âu không biết đã đành,
ngay văn học Xô viết, chúng ta cũng không biết được đến nơi đến chốn, vì để
tiếp xúc với nước ngoài một cách bình thường, cái tâm thế của chúng ta đã sai,
bản lĩnh chúng ta không có, nhiều người làm nghề của chúng ta thiếu đi cái sáng
suốt và tự trọng, và tự mình là mình, đáng lẽ phải có.
Ở đây, còn một khía cạnh nữa. Phải nói tới, là
sự khinh rẻ phê bình -- khinh rẻ lý
trí -- nó khiến cho càng ngày người ta
càng chơi vơi trong một cuộc đuổi bắt tuyệt vọng.
Đấy,
trong một hoàn cảnh như thế, tạp chí Văn học nước ngoài của Hội, sẽ ra
số đầu tiên vào 1996 . Rồi họ sẽ bơi trên cái biển bao la này, sẽ chết đắm chết
chìm trong những việc chả đâu vào đâu. Mặc dù đấy là công việc lâu nay mọi
người vẫn yêu cầu làm, và đấu tranh mãi mới được làm. Có gì lạ đâu công việc đã
không được làm đúng lúc. Tự chúng ta đã lữa ra, thì còn tiếp nhận được gì ở
ngoài, một điều mà mọi cơ thể sống khác,
không thể từ chối.
27/11
Điều tôi tự nhủ hàng ngày:
- Hãy tu giữa cõi đời. Hãy
sống theo điều mình tin tưởng.
- Điều quan trọng bây giờ
không phải là mở rộng thêm nữa, mà là vun quén đời mình lại.
- Không phải là chửi bới ai
hay khen ai, mà là trình bày mình trước cuộc đời thiên hạ.
30/11
Xem Trao cao đèn lồng đỏ
và Cúc đậu: Bất cứ vấn đề gì của con người cũng là thú vị và đáng quan
tâm.
Con người và hoàn cảnh:
- Con người và cái xấu cái
tốt của mình
- ý nghĩ của sự sống cái
chết.
- Người có phải tai vạ của
người?
Phụ nữ và đời sống:
- Ai có khả năng thay đổi?
- Thay đổi để làm gì!
Lâu nay, mình quen hiểu văn
nghệ là tư tưởng. Nay, những hoá ra là tự nhiên mới lại là kỳ vĩ choáng ngợp.
9/12
Sắp hết 95 rồi.
Gặp A Sokolov và day dứt
trở lại
Hãy viết: Người nước
ngoài có thể tìm thấy gì ở văn hóa Việt Nam.
Cái khó khăn, mà cũng là cái
buồn cười của mình bây giờ là cái gì cũng có thể mở rộng ra được, càng có thể
viết ra khác mọi người được, cũng có thể đi sâu được .
Và cái gì, mình cũng thấy
có một phần cuộc đời mình trong đó, từ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn
Tuân, Nguyễn Bính, các vấn đề văn học cổ, các vấn đề quan hệ với nước ngoài.
Tưởng có thể sống đến vài
chục năm nữa, cũng không làm hết việc
16/12
Kỷ niệm 10 năm ngày mất của
Xuân Diệu, người ta lại hùa nhau ca ngợi Xuân Diệu. Một đầu đề trong chương
trình kỷ niệm. Nguyễn Đình Thi - Xuân
Diệu, một nhân cách lớn. Tuy nhiên,
người nghĩ ra cái đầu đề ấy, lại là Phạm Tiến Duật. Lúc này ông Thi đang ở Sài Gòn.
Hai chục năm trước gì đấy
ông Bregnev có quyển Đất nhỏ đất hoang gì đấy, Liên Xô cần tuyên truyền,
báo Nhân Dân đến đặt ông Nguyễn Đình Thi viết bài khen, Thi không viết,
Tô Hoài thì nhận viết và còn đi nói chuyện nữa.
Giờ đây, mở ra vụ Bảo Ninh,
sau khi thuyết cho Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam, Ngọc Tú nói, báo Công An TP HCM mời
đến Tô Hoài đưa 500 ngàn trước, rồi đặt viết, ông Tô Hoài cầm tiền về sau mang
trả lại, đại ý ông chỉ bảo rằng, truyện này bây giờ cũ rồi, ai người ta còn đọc
nữa.
Nhưng Nguyễn Đình Thi thì
nhận viết, trên báo Công an TP (hay là trả lời phỏng vấn gì đấy)
Mình nghĩ: Lão Tô Hoài khốn
nạn, nhưng là khốn nạn lúc trẻ, về già bướng, dám làm mình hơn.
Còn như Nguyễn Đình Thi,
hình như lúc trẻ lão kiêu căng hơn về già cảm thấy bất lực, nên mới đổ đốn như
vậy.
Trong thời gian này, còn có
mấy vụ lặt vặt.
- Báo Văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh, có bài phê phán một quyển sách của NXB Văn học, là lấy ra toàn
những bài có tư tưởng chống cộng.
- Nhiều bài ở TPHCM phê
phán Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập là viết về các vấn đề dơ bẩn.
- Trước đây khoảng 2 tháng
phim Xích lô bị kêu là độc hại, vì trong đó nói nhiều đến cái ác của con
người (mặc dù phim này được nhiều giải thưởng quốc tế)
- Ngày 5/12
ông Hà Sĩ Phu tức Nguyễn Xuân Tụ bị bắt vì
dang lưu truyền một tài liệu trong đó có nhiều không đồng ý với ông Đỗ Mười.
Nhưng truớc đó, (theo Ngô
Văn Phú kể) Hà Sĩ Phu có trả lời đài UPI
- CNCS đã lỗi thời
- Mỹ không nên bán cho Việt
Nam hàng hóa theo quy chế tối huệ quốc, chừng nào ở Việt Nam chưa thực hiện vấn
đề nhân quyền.
Đến ngày hôm nay, có tin có
2 tác phẩm in ra năm 94 được giải thưỏng của hội đồng (năm 95) .Văn xuôi: Trăng
soi sân nhỏ của Ma Văn Kháng. Thơ: Thư mùa đông của Hữu Thỉnh. Nhưng
quyển Trăng soi sân nhỏ vẫn khiến nhiều người dè dặt: Ông Anh Đức, ông
Nguyễn Quang Sáng, điện ra nói rằng đọc Ma Văn Kháng thấy con người Hà Nội sao
mà ác thế. Còn Tô Nhuận Vỹ thì lưu ý rằng có một truyện nói đến người tù, làm
như thế, rất dễ gây ra hiểu lầm.
29/12
Hôm nay có cuộc hội thảo
Cao Xuân Huy 95 năm ngày sinh mà tôi
không đi được. Trước đó, 14/12 đã có hội thảo thơ Thanh Thảo, Nguyễn Duy trong
sự tìm tòi thơ hiện nay, dưới góc độ bản sắc dân tộc. Tôi chỉ gửi đến một bản
báo cáo.
Tự nghĩ, một số hội thảo
không cần dự vì không báo cáo nào quan trọng. Một số khác, như hôm nay cũng
được, nhưng thôi để đọc trên báo vậy.
Tối chủ nhật 17/12 Thuỵ
Khuê từ Paris gọi điện về ý muốn phỏng vấn về tình hình phê bình hiện nay.
Cùng thời gian có Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào (Sử do Ân đề nghị, bà Đào do tôi đề nghị). Trước
đó, Thuỵ Khuê đã nói chuyện với Hoàng Ngọc Hiến khi Hiến qua Mỹ. Tối 31/12 sẽ
phát. Thuỵ Khuê chỉ nói với Đặng Anh Đào một nhận xét là tôi có vẻ bi quan quá,
trong khi bà Đào đỡ hơn, vui hơn. Có tin cả Lữ Phương cũng bị bắt nữa (?) Bùi
Hoà (cơ quan) đi học chính trị về chỉ nói có mấy nổi tiếng nhất là Mác Angghen
Hồ Chí Minh và Hà Sĩ Phu)
27/12
Hội văn
học nghệ thuật Hà Nội đang khủng hoảng cán bộ lãnh đạo. Người ta lại đành lại bầu Bằng Việt làm chủ tịch. Ông Tô Hoài
tưởng làm chủ tịch danh dự, nhưng cũng thôi. Bà Hoàng Ngọc Hà làm Phó chủ tịch
Hội văn nghệ, Chủ tịch Hội văn học, như vậy là nắm hết quyền hành của Hội.
Nghĩ cũng buồn. Có một lần
bọn tôi ngồi họp, không biết làm gì, mới mang thơ Bằng Việt ra đọc. Ôi chao,
thấy dở quá, nhiều bài được, trong bài nhiều câu độn, nhiều chữ đưa đẩy để bắt
vần.Trong một bài viết về lực lượng sáng tác, Ngô Thảo cố nhét bằng được cái ý
nói là Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Bằng Việt nay trở lại tình trạng nghiệp dư.
Hồi trước Bằng Việt đã bị đánh bật khỏi Hội văn nghệ, sau lơ vơ sang làm bên
Hội Liên hiệp (báo Diễn đàn văn nghệ) sau lại chuyển sang ngạch cán bộ
chính trị, làm Phó chủ tịch HDND thành phố Hà Nội. Giờ lại tái hồi Kim Trọng. Mọi
chuyện còn đang chờ.
Tôi nghĩ: ở một nước như
nước Nga, bọn văn nghệ sĩ ở thủ đô có thể làm loạn được (tờ Moscva văn học nổi đình đám một thời). Còn
ở Việt Nam, thủ đô toàn hạng hai, tức là đầu thừa đuôi thẹo của trung ương.