VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Nhật ký chiến tranh - Hà Nội đầu 1974

   Tiếp theo bài "Hà Nội 45 năm trước tháng 11 12/1973" ở đường link 
https://vuongtrinhan.blogspot.com/2018/12/ha-noi-thang-11-12-1973.html


   11/1
    Đoàn Công Tính kể cảm giác về Hải Phòng. Mọi người cứ ngơ ngác, như là vừa bị lừa. Không ai còn thiết gì nữa. Gọi nhau đi ăn thì lùi lũi đi, không hăng hái, không bốc lên được.

     Những gì mà mọi người lo chi chút ngày hôm qua, coi như hỏng cả -- không dùng được việc gì. Hôm nay, lại phải lo tích luỹ lại.
   Và bây giờ sao người ta quên nhau ghê gớm như vậy -- Tính nói thêm. Như tôi có thằng bạn, hồi chiến tranh phá hoại, tôi ngồi viết cho nó những bức thư hàng 8-10 trang. Nay tôi nhận được nó bức thư 4 trang cũng chẳng muốn trả lời.

   15/1
   Sách báo Sài Gòn ra ngày một nhiều mà các nhà văn trong ấy cũng được nhắc tới nhiều hơn bao giờ hết. Trong một bài ký Tô Hoài kể ra một người mà ai cũng hiểu là Vũ Bằng.
   - Ở trong Nam, Vũ Bằng cũng viết hồi ký, không những kể chuyện Thương nhớ mười hai mà còn kể về Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố.
   Nhân chuyện B52  cuối 72, Vũ Bằng tiếc Khâm Thiên cho đó là một thứ nôi văn nghệ trước cách mạng, nhiều vấn đề của văn nghệ được bắt đầu từ đây.

   20/1
   Thỉnh thoảng tôi quay ra hỏi ông Khải xem ngày xưa có thế này không? Biết là làm khó cho ông, nhưng cứ muốn, nên không kìm được. Loanh quanh lại trở về với vấn đề ấy. Để rồi hôm nay nghe ông gắt:
   - Cái ông này cứ hỏi đường ngang cuốn chỉ mãi.... Cũng phải dần dần vỡ ra, chứ ngày xưa cũng như thế này, ai sống làm sao nổi.
   Nhưng mà thôi rồi, bây giờ đổ vỡ hết rồi. Không phương cứu chữa. Chúng tôi nghĩ đến nước Đức sau đại chiến. Chúng tôi nghĩ đến nước Nga sa hoàng.

   Thỉnh thoảng lúc rỗi, tôi lại mơ màng tưởng tượng ra một khuôn mặt là cái mặt chính mình để rồi nhìn thẳng vào đó xem nó đang như thế nào. Anh nên nhớ anh ở vào một đất nước vừa qua một cuộc chiến tranh. Và để làm cuộc chiến tranh này, người ta phải nghĩ ra một thứ chủ nghĩa phát xít. Sống qua được thời này đã khá. Làm sao mà có thể ngẩng mặt lên được.

   Một nhà báo Pháp (?) viết đại ý: Tình hình ở Việt Nam là cả hai bên còn muốn đánh nhau nữa. Nhưng dân chúng cả hai bên đã chán. Dân chúng thành một thứ sức ép. Thế là một. Thứ hai, cần phải lo kiến thiết chứ. Thứ ba vấp phải một bộ máy hành chính quá nặng.
  Khải tóm tắt:
-- Cả thống nhất tổ quốc, cả xây dựng CNXH,  với việc tự tổ chức mình lại, xây dựng lại -- cả ba việc ấy đều hỏng, thế thì còn nói chuyện gì.

   Còn như chuyện hoà hợp dân tộc.
   Một sĩ quan Sài Gòn:
   -- Hoà hợp cũng có nhiều cách, như chanh pha nước đường, thành nước chanh rất tuyệt. Nhưng cuội bỏ vào nước ngàn đời vẫn là hai thứ rời rã. Bây giờ chúng tôi gặp các ông. Các ông không đời nào từ bỏ cách sống của các ông. Mà chúng tôi vẫn phải giữ kiểu của chúng tôi. Thế thì chịu, chịu. Các ông cứ nói rằng chúng tôi ôm chân Mỹ. Nhưng ở Việt Nam này, thả nào cũng phải dựa vào một thế lực nước ngoài. Nếu không, làm sao tồn tại được. Chính chúng tôi không bao giờ nói rằng: “Đời đời nhớ ơn nước bạn” như các ông...
   Xuân Sách: Bây giờ hết chuyện đối thoại. Đối thoại trở thành trớ trêu. Khổng Tử nói chuyện với híp - pi làm sao được.

    25/1
    Tết. Những ngày vui là một dịp để người ta nhìn mặt nhau gần  hơn. Một dịp để phô bày, tự bộc lộ. Đốt pháo ngày tết ư? Chẳng qua muốn kêu to lên một tiếng chứng tỏ về sự có mặt của mình ở trong đời sống.
   Cái xã hội hiện nay, chỉ có thể chấp  nhận cho người ta sống với nhau như vậy.
    Lòng đường là một cái gì còn để hở một khoảng cho tự do với nghĩa ai muốn làm gì thì làm. Con người đi lại tuỳ tiện. Xe ô tô tự dưng cắm cờ (xí nghiệp nào đó mừng công). Có lần, một đám cưới thổi kèn bu rích rầm đường. Mỗi người giải thích cái khe hở đó một kiểu, và khai thác nó theo cách có lợi cho mình. Xét ở cái sự  bừa bãi, xuôi chiều, nhố nhăng, xã hội ta cũng tự do lắm chứ.
   Tính:
   -- Đi trên đường bây giờ, rất khó phân biệt những người nào, thuộc nghề nghiệp gì. Mặt mũi tất cả nhoà hẳn đi. Nhưng sự khác nhau lặn sâu vào bên trong thì vẫn còn đấy dù chỉ chút ít. Bên trong người ta vẫn khác nhau bao nhiêu, để lại giống nhau biết mấy.

   14/2
   Khải:
   --Đất nước làm sao mà lắm thứ kỷ niệm. Quanh năm kỷ niệm. Nguyên Ngọc gửi thư về cho tôi, nói rằng chúng ta qua những ngày tháng chiến thắng quằn quại. Mình (Nguyên Ngọc) còn đang viết được vì mình còn ở giữa cái thực tế đó. Nhưng mình còn phải vươn lên trên cái quằn quại kia.
   Khải bình luận thêm:
   -- Vươn lên thì chỉ còn bộ xương. Ông ấy gửi ra một cái ký, lo rằng ở ngoài này không còn tinh thần chiến đấu nữa, nên lên giọng dạy đời. Nghe mà sợ.

  Tình cảnh và  suy nghĩ các nhà văn ở chiến trường thường vẫn trở lại trong câu chuyện của chúng tôi.
  Đâu trong một lá thư, Nguyễn Khoa Điềm cũng e ngại ngoài Bắc, mọi người quên mất mọi chuyện, thanh niên bắt đầu nghĩ đến nghỉ ngơi.
  Triệu Bôn gửi thư ra cho ông Tô Hoài. Em cũng muốn ra, nhưng trên các anh ấy không cho ra. Trong này ngày ngày du kích chỉ uống rượu và nghe đài Sài Gòn. Bọn em ngày đêm cầu nguyện làm sao cho Trung ương thấu hiểu tình hình miền Nam.
  Nguyễn Khắc Phục thì khái quát vào đây bây giờ ông dở ông, thằng dở thằng, nửa đời nửa đoạn thế này!
  Khải đế thêm, đến ở Hà Nội, cũng còn dở ông dở thằng nữa là ở trong ấy..
  Một câu ca dao tồn tại kiểu truyền khẩu ở chiến trường
Năm nay ăn tết rừng xanh
Sang năm ăn tết ở quanh rừng già
Anh ơi cố gắng nuôi gà
Để ta lại chuẩn bị ăn tết rừng già rừng xanh
    Tôi buột mồm chỉ cần mượn hai bài thơ của Bertold Brecht là nói đủ hết tâm sự của mình.
 Một là Gửi người mai sau: “Quả tôi sống thời gian cay đắng  lắm”. 
Hai là Nói với con ( lúc đầu nói thời buổi này việc gì phải học; sau đã lại dặn con cứ học toán học văn học sử...). 
Bài trên là nhận định về thời thế bây giờ. 
Bài dưới là khuyên nhau trong tình thế ấy, phải sống và hành động ra sao. Bằng Việt bảo ông nói thế hóa ra thời này cũng tương tự như thời Quốc xã rồi còn gì. 
Tôi không cãi lại. Tôi cũng không biết tôi nghĩ gì nữa.

   Cái tội ác lớn nhất của người quản lý một xã hội chiến tranh là làm cho người ta không còn nghĩ đến chuyện làm thêm của cải. Làm thì bị cấm đoán. Chỉ sợ cá nhân giàu thêm. Người ta chỉ còn có cách ăn cắp, nịnh bợ, đục khoét, nhớ thế mới có thể mát mặt ít chút. Và thế là ngấm ngầm đua nhau. Cái ao ước có thể khá giả hơn, nó gắn chặt như một bộ phận trong mỗi con người chúng ta, làm sao mà hòng xoá bỏ được.

     3/3
   Lúc nào buồn, có lẽ chỉ cần ra đường là có thể hết. Hết cả buồn vặt. Bởi còn lại chỉ là nỗi đau lòng lớn lao. 
Bụi bậm, sự chen chúc, sự vô học, những gì lầm lụi, những gì tê liệt. Mặt đường là một cái sân bẩn thỉu.
 Mặt đường là một cái ao tù nước đọng sau nhà để người ta tha hồ vứt rác. Những câu nói khốn nạn, những câu chửi cay nghiệt.
  Tôi biết nói thế nào đây, đây là cái thành phố của tôi, thành phố quẫy lộn, thành phố dầu dãi, thành phố ngồi bệt xuống đất để tồn tại.
  Cái điều mà tôi thường không dám nghĩ tới, cái điều gọi bằng tên của nó là sự thất trận, cái không khí chiến bại đang hoành hành, đang hiện ra đầy đủ với bộ mặt nhàu nát của nó hơn bao giờ hết.
   Đến lúc nào đó, sự trắng trợn của người ta tự nhiên có đủ loại lý do chân chính. Không còn biết nói với nhau thế nào nữa. Nản hết mọi sự. Với một nhân dân thế này, có thể xoay sở điều gì được?

     30/3
   Lại vẫn có nhiều tin đánh nhau. 
Xe ủi đất đánh nhau với máy bay trực thăng. Các kỹ sư Bắc Việt làm đường chia đôi miền Nam. Xe ủi đất đã ủi tung con đường đi đến hoà hợp—ai đó bình luận.
... Xe tăng, thiết giáp vẫn là còn đang vào. Khốn khổ cho dân tộc tôi, người ta đọ nhau về lòng tin, tranh hơn giành kém, một đứa bé con cũng nói bố đi Nam, bố đi Nam. Nó chỉ biết có thế.

  Không ai lo chuyện làm ra của cải. Một kỹ sư nhà máy Trần Hưng Đạo nói với tôi: Mọi sản phẩm làm ra đều hỏng đến 30%. Có nơi hỏng 70%. Một mẻ gang, chuẩn bị hàng nửa tháng trời. Một công nhân rót gang nóng quá, vứt cát lung tung vào khuôn. Hỏng hết cả. Mất hàng nghìn tiền điện.

     31/3
  Thành phố ồn quá, người đi, thanh niên nói cười ầm ĩ ngoài đường. Thành phố như một con tàu trì trệ ì ạch. Những đám khói vẩn lên trên vườn hoa, đám khói ở một gốc cây, đám khói sau một vạt lá sấu... Thành phố như một xứ nhà quê, người già cổ hủ, trẻ em nhố nhăng lưu manh hoá.
   Luôn luôn Hà Nội gợi cho ta cảm tưởng là một thứ thành phố có thể đẹp, và ngày xưa có lẽ cũng đẹp, hơn là hôm nay đang đẹp. 
Không phải xấu nữa, nó đang hư hỏng.

    ... Có lẽ trong cuộc đời, tôi sẽ không bao giờ quên được mùa xuân năm nay. Mùa xuân thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng năm nay, chúng tôi ở vào một mùa xuân bị đe doạ bởi nạn đói, có lẽ vì thế mà nó càng đẹp hơn chăng. Những bông gạo nở tung ra trên thân cây nứt nẻ, hoa như rót từ nhựa cây phá ra mà thành, hoa như một tiếng kêu cuối cùng của một thân cây. Cái không khí này mơn man. Nền trời hồng lên như sắc lửa ở một đám cháy xa. Trời đất cũng đĩ tính quá. Những đôi trai gái đi sát vào nhau hơn. Mọi vật đều khao khát sự sống. Nhưng, nhìn kỹ  thì thấy cái đua nhau nẩy nở ở đây vẫn là những mầm xấu, mầm dại và cái đẹp hùng vĩ  thì hoá ra vô duyên lạc lõng.

     Một xã hội cơ cấu theo kiểu đơn bào ví như những con giun. Nghĩa là chỉ gồm những bộ phận đơn giản và giống hệt nhau. Đó là xã hội của chúng tôi hôm nay. Sống trong xã hội như vậy, không ai khác đi nổi.

     Một lần nào đó, tôi đã nói với ông Khải rằng cần sống trong xã hội này, để khỏi cảm thấy mình cắt đứt với lịch sử.
    Ta đang sống giống như các cụ các kỵ ta hồi thế kỷ XVII XIX. 
    Nhưng như thế thì đáng buồn sao. 
    Và một trong những lý do đáng buồn là chúng tôi không được chuẩn bị để sống trong một xã hội như vậy.
     Cuộc sống nửa đầu thế kỷ XX trở nên một cái gì quá xa vời.


Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn