Trên BBC 31 tháng 8 2018, có bài của Nguyễn Giang mà
tôi dẫn ra sau đây. Do chỗ nhận thấy nội dung bài viết có góp phần giải quyết
nhiều vấn đề đang thảo luận trong nước, mặc dù chưa được phép của bạn Nguyễn
Giang, nhưng tôi vẫn xin được đưa lại trên blog để chúng ta cùng đọc. Mong bạn
Nguyễn Giang đồng ý. Trong khi đưa lại bài viết tôi xin phép rút bỏ những hình ảnh
minh họa. Nếu cần bạn đọc có thể tìm lại nguyên văn bài viết ở đường link:
https://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-45249539
NGUYỄN GIANG - NHỮNG NGƯỜI GIÚP CHỮ QUỐC NGỮ "LÀM
NÊN"
Ở Việt Nam vừa có thêm một sáng kiến nhằm ghi công
và vinh danh các vị truyền giáo Pháp, Bồ Đào Nha đã 'xây dựng, phát triển' chữ
Quốc ngữ.
Nỗ lực tìm lại các nhân vật lịch sử đã đóng góp cho
việc hình thành ký tự La Tinh của tiếng Việt luôn là việc cần làm và rất
đáng khuyến khích.
Nhìn lại cuộc giao lưu Đông Tây ở Việt Nam, có lẽ ta
cần tránh cả mặc cảm bài ngoại, đề cao người Việt quá mức cũng như tâm lý
sùng bái các giáo sỹ người Âu.
Có ba lý do:
Một là việc tạo ra bộ mẫu tự La tinh cho tiếng
Việt không có gì quá độc đáo, thậm chí xảy ra sau Trung văn khá lâu.
Hai là chính các nỗ lực của trí thức Việt Nam và
chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương mới thực sự tạo
đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Ba là Đông Kinh Nghĩa Thục không đi tiên phong quảng
bá Quốc ngữ mà chỉ xóa nốt rào cản tâm lý đã bị lạc hậu để trí thức bản địa
yên tâm dùng Quốc ngữ.
1. La tinh
hóa các tiếng ngoài châu Âu
Trong lịch sử ngôn ngữ, việc La tinh hóa
(Romanisation) các tiếng ngoài châu Âu đã diễn ra khá nhiều và tiếng Việt
không phải là biệt lệ.
Đến Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16, nhà truyền giáo
Matteo Ricci đã nhanh chóng soạn tự điển tiếng Trung bằng ký tự La tinh đầu
tiên.
Sang đầu thế kỷ 17, ông cho xuất bản tại Bắc Kinh cuốn
Tây Tự Kỳ Dị (Xizi Qiji - Miracle of Western Letters) bản tiếng Trung theo âm
La Tinh.
Sách ra tại Bắc Kinh năm 1605, gần nửa thế kỷ trước
khi cha Alexandre de Rhodes xuất bản ở Rome năm 1651 'Phép giảng tám ngày' tiếng
Việt dạng La tinh và cuốn 'Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum'.
Cả Matteo Ricci và Michele Ruggieri đều dùng tiếng Bồ
Đào Nha để phiên âm Hoa ngữ, như cách các giáo sỹ Bồ Đào Nha đầu tiên ghi ký âm
tiếng Việt.
Sang năm 1626, một giáo sỹ dòng Tên khác, Nicolas
Trigault (1577-1628) xuất bản cuốn 'Tây Nho Nhĩ Mục Tư (Xiru Ermu Zi) ở Hàng
Châu.
Đến cuối thế kỷ 19, Thomas Wade và Herbert A. Giles soạn
'Chinese-English Dictionary' năm 1892, tạo chuẩn quốc tế cho Hoa ngữ dạng La
tinh.
Sau này, Mao Trạch Đông cho tạo ra bộ bính âm
(pinyin) ở CHND Trung Hoa nhưng ký âm Wade và Giles đến nay vẫn được dùng ở
Hong Kong và Đài Loan.
Tại Ấn Độ, tiếng Hindi dạng Devanagari được học giả,
nhà thống kê và quan chức thuộc địa người Scotland, William Hunter chuyển sang
hệ La tinh cuối thế kỷ 19.
Hindi hệ Hunterian vẫn được chính phủ Ấn Độ ngày nay
sử dụng và từng là chuẩn để các nước Nam Á nghiên cứu khi La tinh hóa tiếng của
họ.
Vua Thái Lan hồi đầu thế kỷ 20 cũng cho soạn ra bộ chữ
La tinh tiếng Thái, và tham khảo từ hệ Hunterian.
Việc La tinh hóa như thế không phải là quá khó khăn
mà quan trọng hơn cả là môi trường chính trị, xã hội có thuận tiện để phể biến
alphabet mới.
Ví dụ tiếng Ả Rập được người Pháp chuyển sang hệ La
tinh nhưng bị phái dân tộc chủ nghĩa Ả Rập bác bỏ vì coi đó là một 'âm mưu
Do Thái'.
Nay, giới trẻ Trung Đông lại dùng không chính thức tiếng
Ả Rập hệ La tinh cho mạng xã hội vì giản tiện khi viết trên smartphone .
Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, cải cách ký tự thời Ataturk năm
1932 đã nhanh chóng 'Âu hóa' văn tự hệ giống tiếng Ả Rập để chuyển sang La
tinh toàn bộ như ngày nay.
Các tiếng Trung Á từng đổi hai lần, từ ký tự Ả Rập
sang Cyrillic thời Liên Xô để gần đây lại chuyển sang hệ La tinh, với
Kazachstan là muộn nhất, sẽ xong năm 2025.
Các vị truyền giáo đã có công đầu tạo ra bộ chữ Việt
hệ La tinh nhưng giả sử không có họ thì việc đó cũng hoàn toàn có thể được
làm sau này.
Theo Britannica, Alexandre de Rhodes muốn dùng chữ Quốc
ngữ để "cải đạo Ky Tô cho toàn thể dân chúng" ở Đàng Trong và Đàng
Ngoài nhưng chỉ cải đạo được cho chừng 6500 người Việt, con số không đáng kể.
Người Pháp sau khi chiếm Đông Dương đã không ủng hộ
việc biến người Việt thành dân tộc Thiên Chúa Giáo.
Ngược lại, các lãnh đạo nền Cộng hòa Pháp khi đó nổi
tiếng là chống tăng lữ (anti-clerical) và theo tinh thần giáo dục thế tục.
Họ đã đem Quốc ngữ dạy trong các trường dòng ra trường
công lập cho toàn thể dân Việt, mở đường cho cách viết mới này trở thành phổ
biến.
2. Vai trò của Jules Ferry và các quan chức Pháp
Hồi năm 2012, BBC News có bài nói về hai người khổng lồ
của văn hóa Pháp, Jules Ferry và Marie Curie (Giants of French history: Jules
Ferry and Marie Curie).
Bà Marie Sklodowska-Curie (1867-1934)) nhà khoa học
Pháp gốc Ba Lan được hai giải Nobel, thì nhiều người ở Việt Nam đã biết đến.
Tên của bà được đặt cho trường học tại Đông Dương trước
đây và Việt Nam hiện nay.
Còn Jules Ferry (1832-1893), thủ tướng Pháp, nhà cải
cách giáo dục nổi tiếng, cũng từng có tên đặt cho đường phố ở Việt Nam nhưng
sau bị xóa.
Người Việt Nam có thể chỉ coi ông là Pháp thực dân
nhưng Ferry là nhân vật rất quan trọng đối với Đông Dương cuối thế kỷ 19.
Năm 1881, Jules Ferry đề ra cải cách giáo dục cho
Cộng hòa Pháp, dựa trên bốn nguyên tắc: Phổ cập tiểu học; Miễn phí, Bình đẳng
giới tính và Phi tôn giáo.
Cùng thời gian, chính quyền Pháp cho giải tán dòng Tên
(Jesuits) và cấm mọi dòng tu và việc dạy tôn giáo nằm ngoài thỏa thuận
Concordat với Vatican.
Luật Ferry trở thành tiêu chuẩn của giáo dục hiện đại
ở Cộng hòa Pháp, đi trước Anh và Đức, rồi thành chuẩn cho toàn châu Âu sau
này.
Là người nhiệt thành ủng hộ việc xâm chiếm thuộc địa
ở Việt Nam, ông bị chính giới Pháp đặt cho cái tên 'Người Bắc Kỳ'.
Năm 1885, Jules Ferry mất chức thủ tướng sau khi quân
Pháp thua lính nhà Thanh ở trận Lạng Sơn.
Nhưng hệ thống giáo dục kiểu Pháp theo cải cách Jules
Ferry được đem vào Việt Nam đã thay đổi diện mạo xứ sở này.
Tính phổ cập, không phân biệt giới tính trong giáo dục
là những tư tưởng quá mới lạ ở nơi đa số người dân mù chữ, phụ nữ trong cả
nghìn năm không được đi học.
Các trường thuộc địa đã đưa hàng vạn em trai và em
gái người Việt đến lớp, học với thầy giáo và cô giáo Pháp theo hệ giáo dục
văn minh nhất châu Âu.
Trong giáo trình này, Việt văn và Quốc ngữ đóng vai
trò quan trọng nhờ vào cả chính sách của Pháp và sức thuyết phục của trí thức
Việt.
2. Vì sao
Pháp ủng hộ Quốc ngữ?
Thời kỳ người Âu xâm chiếm, khai thác và khai hóa các
thuộc địa kéo dài hàng trăm năm nên khó có một đánh giá chung đen trắng rõ
rệt.
Nhìn chung thì các thuộc địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
là lạc hậu nhất, của Anh Pháp tốt hơn, và của Hà Lan, Bỉ thì kém cỏi, ít được
đầu tư.
Ngoài việc truyền đạo, khai hóa và kiến thiết, các chế
độ thực dân cũng tàn phá văn hóa bản địa, bóc lột nô lệ và còn gây tội ác
diệt chủng như ở Brazil.
Nhưng khi Pháp sang Việt Nam vào thế kỷ 19, văn minh
tại châu Âu và ý thức về dân quyền cũng đã được nâng cao.
Paris cho sang Đông Dương không ít nhà cai trị có uy
tín về văn hóa, khoa học.
GS Trịnh Văn Thảo trong 'L'ecole francaise en
Indochine' nói Gustave Domoutier, Paul Bert đều là những nhà cải cách theo trường
phái Jules Ferry.
Ông Domoutier, giám đốc Viện Viễn đông Bác Cổ, không
chỉ nghiên cứu về núi Ba Vì, về Cổ Loa, Hoa Lư bằng tiếng Pháp mà còn soạn 'Bài
tập tiếng Annam'.
Cùng thời, Paul Bert trước khi sang làm Thống sứ Trung
kỳ và Bắc Kỳ đã là nhà khoa học lỗi lạc, cha đẻ của y học không gian (aviation
medicine).
Ngày nay, của công trình mang tính tiên phong của ông
về ảnh hưởng về mặt sinh lý của áp suất không khí và dưới nước vẫn được áp dụng
cho hàng không vũ trụ.
Sau đó, toàn quyền Paul Doumer sang Đông Dương từ 1897
đến 1902 tiếp tục các công trình xây dựng Hà Nội và cải tổ hệ thống giáo dục.
Nhưng phải đến khi Albert Sarraut sang làm toàn quyền
Đông Dương hai lần (1911-14, 1916-19) thì chữ Quốc ngữ mới thực sự khởi sắc.
Theo Keith Taylor, nhờ 'Kỷ nguyên Albert Sarraut' mà
tiếng Việt, văn hóa và sách báo Quốc ngữ được nâng cao chưa từng có.
"Ông mời các trí thức Việt Nam đến để cùng khai
thác, định nghĩa thế nào là văn hóa Việt Nam ở thể thức có thể cùng tồn tại
hài hòa với văn hóa Pháp....Cùng việc bỏ hệ thống khoa cử và chữ tượng hình,
chữ Quốc ngữ được đẩy lên để đóng vai trò phương tiện chuyển tải và quảng bá
văn hóa."
Ý tưởng ban đầu muốn xóa toàn bộ tiếng Việt và áp dụng
tiếng Pháp cho toàn Đông Dương như đã làm ở châu Phi bị bác bỏ.
Mặt khác, các trí thức như Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh
đã thuyết phục được người Pháp rằng tiếng Việt không phải là một thứ thổ ngữ
(Patois) mà chuyển tải được các tư tưởng văn minh, tiến bộ.
Để người Việt dùng Quốc ngữ, chính quyền Pháp cũng đạt
mục tiêu là phá bỏ quá khứ Hán hóa và xóa dần ảnh hưởng Trung Hoa ở Việt Nam.
Từ thời Albert Sarraut, Quốc ngữ thành ngôn ngữ hành
chính bên cạnh tiếng Pháp và Hán văn.
Mô hình ba ngôn ngữ này được ông Hà Ngại, một vị quan
triều Nguyễn kể lại trong cuốn 'Tiếng Tơ Đồng':
"Đến Tòa sứ Quy Nhơn, tôi được Công sứ Pháp Fries
phái đến dịch án với các ông Phán toà. Án hình và án hộ do tỉnh đệ đến Tòa, bằng
chữ Hán và Quốc ngữ, phải dịch ra chữ Pháp cho Công sứ duyệt. Các bản án nào
cũng có một bản chữ Hán và một bản Quốc ngữ..."
Đây mới là điều độc đáo bậc nhất trong lịch sử thế
giới: ba ngôn ngữ cùng tồn tại và được sử dụng tại Việt Nam cho cả mục đích
hành chính và truyền thông.
Hệ thống trường Pháp không chỉ dạy lịch sử Việt Nam
'từ Hồng Bàng đến nhà Nguyễn', và 'Chuyện đời xưa' (Trương Vĩnh Ký) mà còn dạy
Việt văn gồm cả Chinh phụ ngâm khúc, Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng
Kim)...
Sách Quốc văn Giáo khoa thư đã thành nền tảng giáo dục
cho nhiều thế hệ học sinh.
4. Đông Kinh Nghĩa Thục và sự tự ý thức
Nhưng sự phổ biến văn hóa Âu và chữ Quốc ngữ chưa lan
ra cả nước vì phản ứng chống Pháp vẫn còn trong giới Nho học.
Phải đợi đến phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1917)
thì Quốc ngữ mới được chấp nhận "toàn tâm toàn ý" để quảng bá tư tưởng
dân tộc.
Nhưng ở Nam Kỳ, các báo Quốc ngữ của Diệp Văn Kỳ,
Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyết Ánh đã có mặt hàng chục năm trước, cụ thể là Gia
Định Báo có từ 1865.
Từ những năm 1880, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) và người
Pháp trong Cơ quan Học chánh Nam kỳ đã soạn sách giáo khoa dạy Quốc ngữ ở cấp
tiểu học.
Bởi thế Đông Kinh Nghĩa Thục ở miền Trung và miền Bắc
là phong trào tự thức tỉnh của các nhà Nho để không bị thời cuộc bỏ rơi chứ họ
không đi tiên phong.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính trị của phong trào là xóa
mặc cảm cuối cùng để giành lấy một phương tiện ngôn ngữ nhằm tự nâng mình
lên.
Đông Kinh Nghĩa Thục cũng thúc đẩy tạo ra một thế hệ
tư sản dân tộc là dùng Quốc ngữ, những người sẽ có đóng góp to lớn cho công
cuộc độc lập sau này.
Cùng lúc, đây là thời kỳ thoái trào của Hán học.
Năm 1919, vua Khải Định cho bỏ khoa cử, coi chữ Quốc
ngữ thành chữ viết chính thức của quốc gia.
Nhưng sự kiện quan trọng nhất cho sự phát triển của
Quốc ngữ phải kể đến là sự ra đời của Nam Phong tạp chí năm 1917.
Lần đầu tiên, các tư tưởng Đông Tây, kim cổ, lịch sử
Việt Nam, Trung Hoa, cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, hệ thống chính trị Mỹ,
Pháp, vấn đề triết học Đức, nữ quyền ở Đông Dương... được Nam Phong chuyển tải
hoàn toàn bằng Quốc ngữ đến người Việt Nam.
Nhà báo, học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) có viễn kiến
coi Quốc ngữ là phương tiện để nâng dân tộc lên hàng văn minh và Nam Phong tạp
chí đóng vai trò đó hết sức xuất sắc.
Sau khi Pháp thua Nhật, vào tháng 4/1945, Giáo sư
Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ Trần Trọng Kim soạn các
sách giáo khoa, gồm cả sách toán, kỹ thuật lần đầu bằng tiếng Việt.
Bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào áp dụng ngay trong niên
học 1945-46 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Sau đó, Chính phủ VNDCCH từ tháng 9/1945 tiếp tục đẩy
mạnh chiến dịch xóa nạn mù chữ ở nông thôn bằng sắc lệnh 'Bình dân học vụ' nổi
tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam dù phụ
thuộc người Pháp vẫn lấy tiếng Việt Quốc ngữ làm ngôn ngữ số một.
Tổng quan mà nói, chữ Quốc ngữ tuy không quá đặc
biệt về mặt kỹ thuật La tinh hóa, nhưng qua thăng trầm lịch sử, nhờ nỗ lực của
nhiều nhân vật độc đáo, cùng chính sách Đông-Tây hội tụ đúng lúc nên đã bén
rễ và còn có sức sống vượt qua chiến tranh để kết nối cả một quốc gia như ngày
nay.