Phần ghi chép dưới đây xin được
xem như
bổ sung cho bài viết dài “Tô Hoài nhìn từ một khoảng cách gần”
bắt đầu từ 2-7-2017 , nhưng sau đó tôi không tíếp tục được.
Bạn đọc có thể tìm lại bản tôi đưa lần đầu ở đường link
https://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/11/to-hoai-nhin-tu-mot-khoang-cach-gan.html
Tô Hoài kể:
- Lúc trẻ tôi cũng không phải là người hiền lành đâu. Cái năm ấy, hồi 20 tuổi, khi vào Sài Gòn tôi đã xông thẳng đến gặp cụ Hồ Biểu Chánh cơ mà.
- Lúc trẻ tôi cũng không phải là người hiền lành đâu. Cái năm ấy, hồi 20 tuổi, khi vào Sài Gòn tôi đã xông thẳng đến gặp cụ Hồ Biểu Chánh cơ mà.
- Cuộc kiếm sống nó làm cho mình phải lam lũ phải chuyên sâu. Như tôi, phải
viết truyện loài vật. Truyện cu Lặc, tôi viết vào đấy cũng là do xót thương một
người nghèo khó.
Vừa đi tôi vừa viết. Số truyện ngắn tôi in mấy năm 1941-43, cũng phần lớn viết hồi ở với bà Phượng.
- Vợ tôi cũng là dân nhà giàu, dân tư sản, ngày trước có ô tô đấy chứ.
Chúng tôi quen nhau từ trước, rồi lên Việt Bắc mới cưới. (Nguyễn Khải vẫn nói
bà vợ ông Tô Hoài có con mắt xanh mới lấy một người nghèo như ông ấy).
- Đi lại với bà Phượng hồi ấy rất đứng đắn. Bà ấy là con nhà tư sản mà. Dân
trong ấy sẵn sàng gả con cho Khách [Hoa kiều], chứ không gả cho dân Bắc. Bà
Phượng vẫn còn nhớ là sao hồi ấy, đi ăn hàng, tiền toàn do bà ấy giả cả. Dân
Bắc vốn ga lăng cơ mà. Biết đâu là mình nghèo. Giờ là cán bộ cao cấp văn nghệ
của Việt Minh, vẫn nghèo.
Sau khi giải phóng miền Nam, năm 1976, tôi có lần nhận được một lá thư từ
Pháp gửi về. Người viết nói rằng mình có một người quen là Phượng, bây giờ bà
Phượng ấy hỏi thăm ông. Tôi nhận ra chữ, của Phượng chứ ai. Và tôi viết thư trả
lời. Thành ra cũng chắp nối lại.
Bà ấy theo chồng đi Pháp từ kháng chiến chống Pháp. Giờ chồng đã chết. Năm
trước có về Sài Gòn. Năm ngoái có ra Hà Nội, có báo cho tôi biết. Mình nghĩ bà
ấy về Hà Nội, không gặp nhau được, không lên buồng được, chỉ ở phòng khách, cho
nên mới trốn đi Đồng Châu, dặn Bằng Việt là nếu bà ấy có đến thì bố trí cho đi
Đồng Châu cho nó ếch dô tích một chút. Không ngờ, bà ấy về vào lúc Bằng Việt cậu ấy lại đi vắng. Không biết hỏi
ai, ở một ngày bà ấy chuồn. Vì thấy Hà Nội bẩn quá, sợ bẩn. Sau này bà ấy hỏi
dân Hà Nội ăn nước cống à. Chả toàn thấy các phố moi nước từ ống dẫn ngoài
đường.
- Ông Tuân ư? Suốt đời cụ ấy sống trên sự chiều đãi của người khác. Có rước
cụ ấy đi thực tế, cụ ấy cũng chả nhớ gì mình đâu, mà chỉ nghĩ cái việc cụ ấy
thôi. Người ích kỷ thượng hạng.
Ông Mạnh viết về cụ Tuân cứ nói rằng, hồi ấy, giá cụ Tuân gặp cách mạng,
thì đã đi làm cách mạng rồi. Đâu có, cụ ấy gặp tất. Nhưng cụ ấy chả theo ai. Cả
tờ-rốt-kít, cả cách mạng.
Ngược lại, sau này cụ ấy theo cách mạng, thì cũng là vì phục ông Tố Hữu, có
tình với ông Tố Hữu. Một là năm ấy, ông Lành ở Huế ra, là gặp ngay cụ ấy để tập
hợp phong trào. Hai là giới thiệu cụ ấy vào Đảng. Sau này cụ ấy khi bực thường
nói để giả thẻ Đảng cho ông Tố Hữu.
Sau vụ giá lương tiền, Tố
Hữu mất chức, chính cụ ấy lại có lên thăm.
Nói chung là cụ ấy vẫn cư xử theo
kiểu ngày trước, trọng chữ tín, quý tình nghĩa cũ.
Được cái, hồi kháng chiến, cụ Tuân rất
đứng đắn, chứ không lăng nhưng như loại Lưu Trọng Lư. Sau 1975 vào Sài Gòn, cụ
ấy chỉ gặp hai người bà Mộng Tuyết, vợ Đông Hồ, với lại một bà nữa, cái bà mà
theo lời chính bà ta nói ra, tức là người có bộ tóc dài được Nguyễn Tuân tả trong
Tóc chị Hoài. Thế thôi, còn những Tam Lang, Vũ Bằng... quen cũ, đều
không gặp. Cụ ấy bảo mấy chục năm xa quá rồi. Bây giờ gặp biết nói chuyện gì.
Chẳng lẽ làm công tác tư tưởng cho người ta à?
Tô Hoài dừng lại, đổi giọng: tôi
đang muốn viết về cụ Tuân một cách gần gũi, chứ không kính viết, như
những người khác. Đã được Quỹ văn hoá họ cho mấy chục ngàn.
Nhân nói về Nguyên Hồng
Văn Nguyên Hồng hồi trước thì ghê
rồi. Sau ông ấy cứ viết ào ào. Tôi bảo thế này mà Nguyên Hồng tức lắm, cố nhiên
tức theo lối bạn bè thôi:
- Ông bây giờ viết cứ như anh bơi
ngửa, thì còn bao giờ là mệt nữa.
- Hồi Nhân văn Giai phẩm, đến lớp học ở ấp Thái Hà ông Hồng
ông ấy không đi ?
- Có đi. Nhưng ông ấy mang đến một
chồng báo Văn, ông ấy bảo bao nhiêu công lao của tôi ở đây, tôi không
sai được, rồi ông ấy khóc. Thế thì ai làm gì được ông ấy nữa.
- Tôi nghe nói ông Thi chính là
người dựng lên Nhân văn Giai phẩm?
- Cũng không phải. Hồi ấy có một
cuộc học tập. Không phải ở Thái Hà Ấp đâu. Thái Hà Ấp là sau. Ông Thi ông ấy
mới khơi cho họ nói. Nói đúng thì là công của ông ấy, nói sai thì ông ấy trị.
Về sau, ông ấy trị thật.
- Chắc cùng sinh hoạt nhiều thì anh
hiểu ông Thi.
- Không, những người khác mình có
thể hiểu, chứ Thi thì mình không hiểu. Ông ấy không có bạn.
Một lúc
khác:
-- Mình học ông Tố Hữu ở cách dùng
người. Hay dở thế nào , ông ấy dùng tất. Mình đã thấy có những lần ông ấy mắng
như tát nước vào mặt Lưu Quý Kì, Hà Minh Tuân cơ mà. Nhưng việc dùng thì vẫn
dùng.
Ông Thi cũng thế, ông Thi lại dùng
ông Tố Hữu cách khác.
Về sự hùng biện của NĐThi: Ông này mà bốc
lên thì ghê thật. Nhưng lúc ấy, tôi đã có cách. Đang nói đến đoạn mà ông ấy
hùng hồn rồi là tôi đến gần, tôi dọn dẹp cái cốc, cái chén... Thế là ông ấy cụt
hứng ngay.
Về
tiểu thuyết của Thi:
Ông này vốn sống hẹp lắm. Các nhân vật trong Vỡ bờ nguyên mẫu là ai, tôi
biết hết. Còn văn chương? Thằng Trương Chính nó nói đúng đấy, “hậu Tự lực”.
Còn cái khoản gái nữa. Mấy lần kiểm
điểm mình phải dự cả. Có lần sau đó, mình nói đùa: “Này bận sau có chim gái,
nhớ phải hỏi ý kiến mình”. Người đâu mà lại khờ dại.
Loại Chế Lan Viên ấy mà, căn bản là
nịnh, nịnh thật trắng trợn. Dạo này ốm, cũng lẫn rồi. Lá thư, có mấy chữ, vợ
bảo phải viết đến tiếng đồng hồ.
Ông Bùi Hiển, ừ, cái ông này cá gỗ
thật. Cậu có để ý không, những khi nói chuyện tất cả anh em đã cười rồi, ông ấy
vẫn không cười, mãi sau ngẫm nghĩ ra, lại cười một mình .
Thằng Chu nói chuyện với ai, nó có
nhìn người ta đâu. Nó cứ nói cho sướng mồm. Không phải đi ăn xin mà là đi giật,
miệng xin tay giật.
Trần Đăng Khoa, nó giỏi tính từ lúc
xung phong đi bộ đội mà không đi học đại học.
Nó làm thơ do trời cho thật. Xem
thế này thì biết. Nghĩ thế nào viết ra thế, không chữa nổi bao giờ.
Các đại hội nhà văn được
mưu tính như thế nào?
Đại hội lần trước (1983), là do lão Hà Xuân Trường lão
ấy lắp cả. Lắp từng người một. Nhưng lão ấy chơi xỏ tôi, tôi cũng biết ngay. Từ
trước đến nay, bàn bạc về nhân sự, vẫn bàn với tôi. Nhưng hôm đưa tin về Đại
hội nhà văn trong chủ tịch đoàn không có tôi, mặc dù tôi ngồi đấy từ đầu. Thế
là tôi biết rồi. Đến kỳ họp sau, tôi chả đến nữa.
Lão Xuân Trường là dân cá gỗ, nên
mới đưa Bùi Hiển vào đấy, rồi làm chủ tịch Hội đồng văn xuôi, rồi là thành viên
bộ phận đọc kịch bản, mặc dù chả biết gì về kịch cả.
Nhàn: Thế ông Tố Hữu có quyết định
gì trong chuyện này không?
Tô Hoài: Ông ấy không can dự, nếu hỏi ông ấy,
ông ấy vẫn nói, và vẫn nghe. Như việc giữ Chế Lan Viên trong Ban thư ký, cũng
là do ý ông ấy.
Qua đoạn này, thấy có vẻ Tô Hoài
vẫn thèm phụ trách Hội nhà văn lắm. Cái việc leo lên địa vị như hiện nay,
vẫn làm ông vui sướng lắm. Tự hào về chuyện bà Phượng còn là “cán bộ cao cấp
của Việt Minh” cơ mà. Rồi tự hào là bây giờ vẫn được phụ cấp vì đã hoạt động từ
trước cách mạng.
Người và nghề
Một lòng tin vào những sự nhảm nhí
của cuộc đời, lòng tin ấy ở Tô Hoài thật mạnh, thật... bất diệt. Ở con người
đó, luôn luôn âm thầm những ý nghĩ về cái sự chẳng ra sao của con người.Tô Hoài
vừa có cái dửng dưng lõi đời của phố chợ, vừa có cái thóc mách, dòm ngó của
làng quê.
Nhàn: Ông Tản Đà dịch thơ Đường và
chủ giải Truyện Kiều tài thật.
Tô Hoài: Vì lúc ấy, thơ cụ không
đăng được nữa rồi, cụ chỉ còn có mỗi một cách là mang vốn cũ để ăn dần.
Một dịp khác.
-- Ông Thế Lữ luôn luôn biết rút
lui đúng lúc?
-- Lúc Xuân Diệu ra, làm sao mà người ta yêu Thế
Lữ được. Tôi nhớ bài cuối cùng Khói huyền lên là bài nói về thuốc phiện.
Tô Hoài không bỏ qua những dịp ngẫu
nhiên, khi có thể chơi người khác những cú nào đó. Hết Nguyễn Đình Thi, Xuân
Diệu, Huy Cận, lại nói Hoàng Trung Thông. Ông cá gỗ này uống rượu không phải vì suy nghĩ sâu sắc gì về đời sống
đâu. Mà chẳng qua là vì không biết tổ chức gia đình không làm chủ nổi mình.
Chỉ qua mấy cú điện thoại thôi cũng
rõ con người Tô Hoài. Tôi vừa bảo “hôm nay nếu anh có rỗi, xin lại thăm anh một lát. Chứ các lần truớc anh bận
quá.” thì ông đã dẽ dàng:
-- Mình thì bao giờ cũng thế thôi, chả bao giờ
bận, chả bao giờ rỗi. Nhưng lần này cứ đến nhé!
Hôm ấy Tô Hoài nói chuyện khá hăng
hái, tôi định về rồi, ông cũng còn nói thêm mấy câu nữa. Nhưng
lần sau, ông cắt hẳn không tiếp. Tôi đã biết trước, nên đến gửi thư ngay
từ đầu.
Một hôm khác, trong điện thoại:
- Hôm qua, anh còn thức khuya không
anh?
- Không, mình cũng đi ngủ ngay.
- Thế bài bút ký đến đâu rồi?
- Xong rồi, mình đang chép lại ra
bản nữa (ngừng một lát, chắc là không khỏi có chút tự hào). Nghĩ cho cùng thì
trong thiên hạ này, người ta chơi nhiều, chứ làm việc có mấy tí.
Một lời tự thú:
- Năm nay tôi chỉ in hai cuốn, Nhớ
Mai Châu và Những gương mặt. Ngoài ra thì các truyện cho thiếu nhi.
Nhưng tính làm gì.
... Một nhà văn như tôi, cũng là nhà văn đứng đắn chứ gì.
Mỗi năm lẽ ra tôi chỉ viết độ 200 trang là vừa. Đằng này phải viết bao nhiêu
thứ. Lại phang ra các thứ truyện tranh nữa.
- Nhà tôi bao giờ cũng chi tiêu có
nguyên tắc. Bao nhiêu lương, tôi đưa cả cho bà Cúc. Tiền viết sách tôi gửi tiết
kiệm. Còn viết vặt thì để trà nước với anh em. Dạo này Hà Nội có cái món bia
Trung quốc ngon lắm.
- Thế anh gửi tiền tiết kiệm, có bị mất giá?
- Cũng có mất một ít. Nhưng mà nghĩ
ra ngay. Giữ vàng thì không việc gì.
Những nhà văn ngắn hơi
Bà Inna Zimonina, người chuyên dịch văn học Việt Nam của Hội nhà văn Liên xô hỏi Tô Hoài:
-- Quyển Thời xa vắng của Lê
Lựu sao hai phần chênh nhau thế?
- Tôi vẫn giữ ý kiến là nhà văn
Việt Nam còn yếu lắm, tác phẩm viết không đều tay đâu, chỉ được cuốn đầu, còn
cuốn sau là hỏng.
Nhưng nhiều anh em người ta vẫn
không bỏ được cái mộng ăn to.
Như Phượng Vũ, tôi đã khuyên rằng đừng có làm tập 2 mà vẫn cứ làm.
Như Phượng Vũ, tôi đã khuyên rằng đừng có làm tập 2 mà vẫn cứ làm.
Lại như ông Lê Khâm. Ông ấy viết
cái Người cùng quê rơi tõm trong im lặng. Mà tôi đã biết từ trước. Lúc ông
ấy bàn với tôi, tôi đã đưa cho ông ấy một bộ sách của tay bộ trưởng văn hoá
Pháp.Không phải A. Malraux đâu, mà sau cơ... Đúng, Mauris Druon viết về mấy
đời một dòng họ, nhưng không viết liền, mà viết thành mấy tập, mỗi tập hơn 100
tr mà đứng riêng ra thì vẫn đọc được.
Ông Lê Khâm đọc xong, không nói gì.
Từ ấy, tôi cũng không nói thêm gì
với ông ấy nữa.
Những điều định viết
- Ồ, cái đó thì nhiều lắm. Tôi vẫn
ước ao có lúc được viết về cải cách ruộng đất. Tôi đã đi cải cách 2 năm ở Hải
Dương đi với một tay. Tay này lạ lắm. Cứ đến đâu nó cũng phải bắn một vài người
lấy oai đã. Đến chỗ Hải Dương với tôi, nó cuỗm một cô cố nông rất xinh làm vợ. (Giống
như Lê Đạt nhà mình. Vợ Lê Đạt sau này là người khác). Sau một lần, mình nghe
đài, thấy một thằng chiêu hồi chửi miền Bắc. Hoá ra chính nó. Tôi còn đi cải
cách ở Thanh Hoá nữa. Tự tay còn phải làm bao nhiêu cung giả, sau rồi mang vào
cho bọn địa chủ nó ấn vào tay điểm chỉ. Chả là hồi ấy mình sợ Ủy ban Quốc
tế nó đi nó kiểm soát mà.
Luôn luôn ở Tô Hoài nhấp nhổm một ý
nghĩ hơn người. Làm cán bộ thạo hơn người, viết văn kỹ cũng hơn. Được cách mạng
chiều cũng hơn , chuồn cũng nhanh hơn, và nhất là sống thiết thực hơn.
Lại nói chuyện Nam Cao với các bản
thảo Sống mòn, mà ông tìm thấy ở một nhà in nào đó, chả ai chịu in.
- Tại ông ấy viết nhiều mẫu người
thực quá?
- Với lại, hồi ấy, một người mới
viết như Nam Cao ai nó in cho cả quyển dày ấy. Phải có tăm tiếng lắm cơ.Trước
cách mạng, cuộc kiếm sống nó quyết liệt. Cánh Tự lực họ sống bằng đồn điền chứ
đâu có bằng nhuận bút.
Những đoạn ghi rải rác
Đọc Chuyện cũ Hà Nội của Tô
Hoài thấy cũng lạ: mình mê cái lão đáng ghét này. Thế là thế nào?
Đọc Tự truyện của Tô Hoài
thấy mê mới chết chứ! Và tôi nghĩ: Có thể viết về Tô Hoài như một nhà văn Việt
Nam tiêu biểu. Nhà văn nước ngoài là những trí thức. Ở mình nói chung là không.
Nghĩ về mấy cuốn mới của Tô Hoài. Nhớ
Mai Châu ế. Nhưng Chuyện cũ Hà Nội thì lại khá. Nhiều mẩu nhỏ, lúc bận để đấy lúc rỗi đọc lại vẫn được.
Khi viết báo, Tô Hoài hay chộ mọi
người về sự chính xác (Những bài đính chính, dọn vườn. Cả những bài trên Người Hà Nội về Anh Thơ. Chỉ Tô Hoài mới để ý sao Anh Thơ, vốn sinh 1918, gần đây lại chữa thành 1921?)
Nhưng Tô Hoài lại chúa ẩu, chúa tài
tử trong nhận xét và thậm chí trong trình bày tác phẩm.
Đôi khi có cảm tưởng lối dọn vườn chê bai
mọi người như thế này là để che dậy cho cái hư hỏng của mình.
Nghề văn
Tô Hoài, khi viết về Như Phong, về Vũ Ngọc Phan có ý thức chỉ tả cái phần
đẹp nhất của họ.
Chỗ này, Tô Hoài giống cách mạng = chỉ nói một phía, chỉ nói về thuở ban
đầu; không nhằm miêu tả và không nói cái phần xấu trong con người nhất là
khi con người đó về già .
Một khía cạnh khác: Tô Hoài là loại
người mà ngày nào sống cái gì đều có khả năng nhớ lại ngày đó.
Cùng việc Tô Hoài + Vũ Trọng Can+ Nguyễn Bính giang hồ vặt mà Tô Hoài kể tới mấy lần.
Nghe Tô Hoài nói rất trữ tình, rất độ lượng về mọi người, lại nhớ những lần
trong câu chuyện hàng ngày, ông nghĩ không ai ra gì cả.
Tận trong thâm tâm, với Tô Hoài, nghề văn vừa thú vị, vừa là một nghề bỏ đi.
Chính Vũ Ngọc Phan từ 1942-43 trong lời tựa O chuột đã cảnh cáo"dạo này, Tô Hoài đâm khinh bạc đi đấy.
Ở Tô Hoài, có sự khinh bỉ con người, lẫn sự ca tụng con người.
Ai khen người khác hết lời như Tô Hoài khen Nguyễn Công Hoan? Nhưng lại
cũng chê bằng những câu đau nhất.
Nói về các nhà văn khác, Tô Hoài động đến những chuyện cụ thể của nghề nghiệp sự truyền nghề, sự bắt
bẻ, gom góp với nhau, từng chữ một.
Mấy loại nhà văn Tô Hoài thường gần gũi
1. Nhà văn công chức, buôn vặt, học lối làm ăn ở bên Pháp- Như kiểu Vũ
Ngọc Phan.
2. Nhà văn ông giáo nghèo, công chức còm song nhạt nhẽo, như Trúc Đường,
Nguyễn Xuân Huy.
3. Đám dân ngoại ô một thứ kẻ
sĩ cuối mùa như Trần Huyền Trân,
Thâm Tâm.
4. Đám nông dân tài hoa lên Hà Nội (Nguyễn Bính, Nam Cao)
5. Đám chiến sĩ về sau (Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng) . Loại này có học.
Các bài Tô Hoài viết về họ cho
người ta thấy cái thiết tha của đời sống, mà ẩn sau đó, vẫn có chút gì như là
chế giễu, như là nửa đùa nửa thật bảo “các anh được thế là khá lắm rồi, đừng có
đòi hỏi gì hơn nữa!”
Tô Hoài vừa nói trước cách mạng khổ, lại có lúc thoang thoảng có cái ẩn
ý, bây giờ khéo còn khổ hơn. Rồi lại thấy như không phải, hai thời không so với
nhau được. Ngòi bút biến màu thay màu một cách tự nhiên, mà màu nào thì cũng đủ cung bậ khác nhau.
Có một chuyện Vũ Ngọc Phan in bài Đi
hộ đê trên Hà Nội tân văn trả nhuận bút, còn báo Ngày
nay in Mê gái không trả, mà Tô
Hoài nói đi nói lại. Hình như ở đó có một chút gì cay đắng, thèm mà không được
chăng.
Tô Hoài đặc biệt nhạy cảm với sự vạ vật tầm thường của con người. Ngòi
bút của Tô Hoài khi nói về chuyện này, cứ có một cái gì rất tự nhiên, hình như
là chuyện của chính mình, từ bé mình vốn vậy.
Từ chuyện lang thang vạ vật dông
dài chuyển sang chuyện làm cách mạng, ở con mắt nhìn thông thường, có lẽ là rất
khó thực hiện, Tô Hoài vẫn nói được. Tô Hoài là nhà văn của cuộc cách mạng Việt
Nam, có thể là cách mạng ở ngay cái đời thường của mình. Mà sao lại vẫn cảm thấy rằng Tô Hoài viết về
người quê mình yêu nước (Người ven thành) người quê mình làm cách mạng (Mười
năm), sao vẫn có cái vẻ như một thứ chế giễu cái lòng yêu nước ấy, cái
trò đi theo cách mạng ấy. Toàn là chuyện thật, cái tình cảm thật của Tô
Hoài, Tô Hoài với tư cách một ngòi bút sinh ra để ghi để viết.
Bậc thầy trong cư xử
Có những việc Tô Hoài làm rất say sưa - việc của một cán bộ. Nhưng ai bảo
ông là cán bộ thì ông lại lùi ra. Không,
không phải, tôi là người viết. Hai vai được thay nhau, tuyệt khéo.
Mấy lần Tô Hoài viết về Như Phong. Và mở đầu Một chặng đường,
cũng là nói về Như Phong. Như Phong lúc đó rất đẹp. Và Tô Hoài cũng chỉ tả vẻ
đẹp của con người này, còn cái phần khác, phần hư hỏng của ông chánh tổng Như Phong, Tô Hoài mặc kệ.
Ở đây, có thể suy đoán. Tô Hoài lúc đó cần in sách ở Nxb Văn học chăng? Có thể. Người này chỉ cần được việc mình, chả để ý
gì đến chung quanh cả. Chỉ có cái khôn là chọn đúng cái nét mình còn cảm tình,
ở con người mình còn cảm tình, hoặc chí ít mình còn cần.
Tôi cảm thấy Tô Hoài sống với ai cũng được, mà lại chả yêu ai, sống với
ai cũng thân mật, đằm thắm, mà cũng chả tha thiết với ai. Ai ông cũng thông cảm
được, xấu đến mấy ông cũng chia sẻ được, nhưng khi cần kể xấu người đó ông kể
xấu được, bảo trị người đó, ông trị được. Cũng chả thương xót gì hết.
Vẻ như Tô Hoài lừa được tất cả mọi người. Nhưng hình như Tô Hoài cũng
chả lừa được ai (hồi Chèo bẻo đánh quạ in ra, người ta chửi rầm rầm).
Tôi nghĩ Tô Hoài có thể nói là rất khinh người, rất chán đời, vì thế mới nhởn
nhơ như thế được. Tô Hoài là một thứ cầm tinh con rắn, không xương sống và tha
hồ uốn lượn, một thứ hồ ly tinh, hoá kiếp này lại sang kiếp khác.
Sự tham lam của Xuân Diệu là sự tham lam thành thật (bằng công phu lao
động của mình), là sự tham lam dễ thấy (đôi khi đòi hỏi khá thô bỉ). Tô Hoài
vượt hẳn lên, cao siêu, thanh thoát trong sự khôn ngoan... cỏ rả của mình. Nụ
cười của Tô Hoài , nụ cười của kẻ từng trải, quả thật đó là nụ cười bản lĩnh
nhưng là thứ bản lĩnh trong việc muối
dưa, muối cà, bán hàng nước.
Không thể gọi Tô Hoài là nhà văn lớn, là nhân cách lớn . Nhưng đó thật
sự là một nhà văn, thật sự là một con người.
Thử phân tích một số quan hệ
với các đồng nghiệp
Tô Hoài và Nam Cao. Ờ, tại sao Nam Cao lại cứ nép mình sau Tô Hoài thế.
Ở chỗ này, thấy rõ Tô Hoài đời hơn, thông thạo trong giao thiệp hơn Nam Cao.
Nam Cao con người ở chỗ run rẩy, không đánh giá đúng được tài mình, và trong
lòng còn chứa đựng bao nhiêu ý nghĩ cao đẹp khác. Ngay sự căm ghét con người
của Nam Cao cũng là ở một phía khác, cao hơn.
Tô Hoài hiểu Nam Cao chứ. Có thể lúc nào đó, Tô Hoài chặc lưỡi - tài
thật. Nhưng tôi không thể viết giống anh. Tôi có việc của tôi.
Ai đó, nói rằng hồi kháng chiến, Nam Cao ảo tưởng lắm. Tôi tin điều đó,
tin rằng loại như Nam Cao, sai lầm thì cũng hơn mọi người, nhưng Nam Cao vẫn có
cái khả năng nào đó, trong việc ghi lại cái không khí thời đại. Nhớ Hội nghị nói thật – từng được tờ Europe dịch,
rồi nhớ cái đoạn du kích nông dân hỏi giấy trong Đôi mắt. Tô Hoài thì
không có khả năng như thế bao giờ.
Tô Hoài và Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài và Nguyên Hồng Tôi đoán một thứ tinh nhạy của Tô Hoài, biết tài
người khác và có thể mủm mỉm mà nói rằng biết lật tẩy người khác.
Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi, một sự
se duyên tuyệt vời đã khiến cho hai người này cộng tác với nhau mấy chục năm
trường (1958 - 1983). Nguyễn Đình Thi đóng một vai mà người ta khó kiếm, vai
người có học. Nguyễn Đình Thi hay làm ra bộ quan trọng các việc của mình.
Tô Hoài thường nhìn vào thứ văn học trò của loại như Thi mà cười. Có
khó gì - Làm gì ta chẳng làm được. Nhưng bản năng nhà văn của Tô Hoài lại kìm
giữ cái đó lại. Con người trong Tô Hoài lại thì thào với chính mình. Ai có việc của người đó. Mình vọc vào đấy làm
gì cho khổ, cho tội ra. Văn của hắn học trò, thì văn của mình mới bán được. Hắn
chết vì cao ngạo thì mình mới sống.
Ở chỗ này, tôi hiểu Tô Hoài là một động vật ăn tạp (có lẽ con người là
một động vật ăn tạp nhất chăng?) Như con gà ăn cả những hạt ngô non, hạt thóc
mẩy, cả những gì người ta vứt ở đống rác. Vì gà có một thân nhiệt khoẻ.
Tô Hoài làm tình chắc không cao đạo như Nguyễn Đình Thi. Tô Hoài làm
tình như người ta ăn quà, tiện trông thấy thì ăn, chẳng no lòng thêm bao nhiêu,
vì có đói đâu, nhưng chẳng lẽ sống lại không ăn quà. Sự nói dối trong tình yêu
của Nguyễn Đình Thi còn có thể vạch ra được, lúc này thề bồi và lúc khác quay
mặt. Trong sự dấn thân vì gái của Tô Hoài, đã bao hàm sự lảng tránh, người
giăng giện với ông ta đã sớm nghĩ được rằng ông ta lẩn như trạch, nên chả nghĩ đòi
đền bồi bao giờ.
Có một nét, tôi cũng hơi lạ ở Tô Hoài, ấy là có cái gì trắng trợn. Đáng
nhẽ người như Tô Hoài không được trắng trợn - sống qua ngày thôi mà. Nhưng cuộc
sống lại gồm cả cái sự dám này nữa. Nhiều việc người ta làm nhưng không nói thì
Tô Hoài đã nói ra mồm.
Nhưng giữa việc gái gú với việc viết về cuốn Đất nhỏ
của Brezhnev cho tờ Pravda, cái nào bẩn hơn?!
Theo tôi, Tô Hoài đọc sách nhiều thật, nhưng không đọc để thay đổi tư
tưởng của mình, không đọc kiểu trí thức (dù dạng thấp, kiểu học trò). Mà chỉ
đọc để học nghề.
Tôi nghĩ đến sự tồn tại của nghề viết văn ở Việt Nam. Trước đó, chữ nho
khó lắm, phải là người đi học, mới làm thơ viết văn được (dù chỉ như Phạm Đình
Hồ, ghi chép chuyện lạ).
Từ hồi Pháp sang, chữ nghĩa học dễ đi rồi mới có loại thợ dệt, thợ cửi
như Tô Hoài chen ngang vào nghề và thành tinh trong nghề. Tô Hoài viết văn
trong không khí dân chủ của xã hội thực dân (dẫu sao cũng dân chủ hơn nhiều, so
với xã hội phong kiến). Trước kia, dân gian chỉ tạo ra được những tác giả vô
danh, từng người trong dân gian, chỉ là nguyên liệu để ghép lên những mảng
huyền thoại nào đó (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn). Nay thì một con người tâm hồn thợ
dệt thật sự đã thành nhà văn. Cái lạ và cái mạnh của Tô Hoài là ở chỗ ấy. Cả
từ triết lý sống, đến sức sống, đều có sức mạnh của loài cỏ dại.
Trong Những gương mặt, Tô Hoài không chỉ nói về người, mà nhiều
lần dẫn ra chuyện mọi người nói về mình. Cả Nguyên Hồng lẫn Trúc Đường đều bảo
Tô Hoài quỉ quái. Tôi nghĩ chắc Tô Hoài cũng khoái cái chữ này. Quái, kỳ
lạ, không bình thường, cái đó cứ nhởn nhơ mà sống, mà trêu mọi người.
Mấy nét tổng hợp
Ngồi nói chuyện linh tinh ở khách
sạn với ông Thợ Rèn. Nghĩ về Tô Hoài.
- Một thứ triết lý bằng lòng với
hoàn cảnh, thế nào cũng sống được.
- Một thứ hư vô: suy nghĩ làm gì, tất
cả đều vô nghĩa, thối tha. Vậy thì hãy lặng lẽ mà thoả hiệp với mọi người. Lặng
lẽ mà hốc cho nhiều, uống cho say. Hưởng thụ vì thấy tất cả vô nghĩa hết.
Triết lý của Tô Hoài, là thứ triết
lý trắng trợn của thế kỷ này: Chúa đã chết. Không còn chuẩn mực gì cả. Tha hồ
làm bậy thôi. Thông thường, những kẻ đi theo triết lý này hay công khai trình
bày cách nghĩ vủa mình càn rỡ, thách thức. Tô Hoài thì khoe ông ta không cần
tuyên bố tuyên truyền gì cả, chỉ lẳng lặng mà làm, và làm một cách quyết liệt
không kém gì ai! Tình cảnh đáng sợ là ở chỗ đó! Tô Hoài có một chút gì đó, vô ý
thức, mù lòa, giống như các nhân vật trong văn học dân gian, như Trạng Lợn,
Trạng Quỳnh... Rồi ra, khi cần phân tích tâm lý dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
này, cũng phải xét Tô Hoài. Ở đây, cũng có một sự hóa thân nào đó. Người Việt
Nam tiêu biểu là Tô Hoài: làm bậy, nhởn nhơ, cuồng tín, hư vô, mặc kệ mọi điều mà không bỏ sót điều gì. Cũng lại là một thứ thằng Bờm nữa.
Trên tất cả, tôi cảm thấy trong Tô
Hoài có một sự phân thân, nghĩa là sống một đằng, nghĩ một nẻo, tay chân làm
một đằng, nhưng bụng dạ vẫn đau đáu một điều gì đó. Cái nghĩ thì vừa thấy kém,
vừa có vẻ khinh bạc- không cần gì, và trá hình là một thứ siêu thoát cao cả.
Cách sống cách làm thì vơ bèo vạt
tép, nhặt nhạnh.
Không còn cái chân quê, thiêng
liêng của người nông thôn. Mà cũng không ra kẻ tham vọng kiêu xa kiểu thành thị.
Tôi nghĩ đến chỗ mạnh của người
Việt Nam: không phải do học vấn. Mà là kết quả của một thứ gì thiên tính, rất
nhạy cảm, nhưng cũng dễ bị sai lạc.
Có thể có một chủ đề như là "Tô Hoài
dưới ánh sáng của Freud".