Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV. Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong lịch sử nước ta.Sau khi Nhân Tông bỏ việc đi tu, người kế tục ông là Anh Tông đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng.Các sách sử cũ đều viết và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi Thượng hoàng Nhân Tông từ Thiên Trường về Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say, Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.
Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy mới về cung” (Tr 394 sđd )Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ Tông.
Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.
Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tôngtinh còn mà thần mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.
Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ lại viết thêm:
“Cho dù Chu Văn Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)
Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.
Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.
Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn toàn hư hỏng.
Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một sự so sánh:
+năm 1296, một viên quan thượng phẩm là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).
+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi”.
Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm tiền. Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).
Theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.
ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em, Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách ra lệnh tịch thu toàn bộ của cải.
Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất rõ:
+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ.
+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở trong vườn.
+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.
Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,– nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc — cũng không tìm được niềm vui tương tự.
Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.
Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong” (tr 456).
Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).
Về đức hạnh của các quan đầu triều đương thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.
Ông này thường “cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo, không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd tr. 431).
Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354 có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam Sách.
Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?
Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành, các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.
Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.
Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các quốc gia không được phép.
Nhìn chung về đội ngũ quan chức của nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có người hiểu biết mà cố vấn cho vua.
Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:
“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6 lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng, thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc, coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.( VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà Trần suýt di chuyển về họ Dương” ( tr 448).Mấy điều tổng kết tạm thời:
I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị lảng tránh.
Điều đó có thể giải thích như sau:
- Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.
- Đối với các sử gia đương đại, nó càng chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản cũ, cách làm cũ. Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.
Mà mất mát đau thương nhất của chiến tranh ở VN là gì?
Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi không thể cứu vãn.
Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực của quan chức trong thời chiến.
Cái đó thì đáng trọng thật.
Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội.
Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước.
Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.
Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học lỏm về một số phương diện văn hóa; còn chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.
III/ Một thực tế của các vương triều hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn hèn kém bấy nhiêu.
Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa. Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các sử gia Hà Nội trong 70 năm qua, thì triều Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.