Năm
1963, như Đông Mai đã viết trong hồi ký Xuân Quỳnh một nửa cuộc đời tôi,
quả là năm có những sự kiện quan trọng đáng nhớ trong cuộc đời Quỳnh: tập thơ
đầu tay và đám cưới. Hai sự kiện này xảy ra gần như đồng thời và liên đới chặt
chẽ với nhau.
Khi
lớp học Quảng Bá khai mạc Cẩm Lai (cũng như Bích Thuận, Nguyệt Tú) được chọn về
học, nhân đó, Cẩm Lai hoàn chỉnh thêm một số bài khác, làm nên tập Tơ tằm.
Để
đánh dấu thời gian theo học của Xuân Quỳnh ở Quảng Bá, nhà xuất bản Văn học in cho Quỳnh một số bài, làm nên
tập Chồi biếc.
Nhìn
theo con mắt ngày hôm nay, có thể thấy hơi trái khoáy: Giữa Tơ tằm và Chồi
biếc gần như không có liên hệ gì, sao không tách ra, làm hai tập riêng?
Song
thực tình là lúc ấy, cả hai người, Cẩm Lai và Xuân Quỳnh đều chưa có đủ những
bài tương đối khá, để ra tập riêng.
Vả chăng, trong hoàn cảnh việc in thơ hoàn
toàn theo chế độ bao cấp -- việc in cho một người cả tập thơ hay nửa tập thơ,
cũng đã là một sự định giá của giới chuyên môn về nhà thơ đó.
Xét
về tuổi tác, Xuân Quỳnh là tác giả trẻ số một được in nửa tập sớm nhất ( tới
1968 Vũ Quần Phương in chung với Văn Thảo Nguyên, Lưu Quang Vũ in chung với
Bằng Việt)
Tổng
cộng 39 trang, Chồi biếc gói gọn lại trong 18 bài, phần nhiều là các bài
Xuân Quỳnh đã viết trong các lần theo đoàn văn công đi biểu diễn ở nơi
xa.
Trước
khi trích dẫn 4 câu:
Hạt muối mang theo vị
đậm đà của biển
Mai, giữa Phần Lan em mang bóng dáng quê ta
Ôi những con đường từ bùn đen đứng dậy
Tung cánh bốn phương
trời bay bổng lời ca.
Vân Long đã viết rằng
“câu thơ Quỳnh lúc đó lốp xốp những khái niệm“, và nói rõ những bài thơ này “
phần lớn chỉ để dán bích báo của đoàn (văn công)”.
Nhưng cũng có mấy bài
hé ra một số chi tiết liên quan đến cuộc đời riêng của Xuân Quỳnh, trong đó có
bài thơ tình thuộc loại hay của tác giả, và sẽ vĩnh viễn gắn với tên Xuân Quỳnh
như bài Thuyền và biển.
Để hiểu loại sau này, không thể không trở lại với
cuộc đời tình cảm riêng tư của tác giả.
Đến với đoàn văn công đầu
năm 1955, Xuân Quỳnh sẽ ở với đoàn cho tới 1962. Đây là thời gian từ một thiếu
nữ mới lớn tuổi 15, - tuổi mực tím như cách nói những năm chín mươi -- Quỳnh sẽ
chuyển sang tuổi thanh nữ chín đầy, tuổi hai mươi hai.
Lẽ tự nhiên là đây
cũng là thời gian trưởng thành của Xuân Quỳnh về phương diện tình cảm.
Có lần, trong câu
chuyện với người viết cuốn sách này, vào khoảng những năm 1969 - 70, Xuân Quỳnh
bảo:
--- Thế này mới biết mình già này: Hồi đang
ở văn công, tôi có yêu một ông, sau hai người phải chia tay. Tôi đau đớn quá,
lúc nào cũng nghĩ đến mối tình vừa trải qua, đến mức đầu óc lúc nào cũng ong
ong, không nghĩ được chuyện gì khác. Mỗi đêm chỉ ngủ có hai tiếng. Bây giờ thì
khó yêu ai được như thế nữa.
Câu chuyện dừng lại ở đấy, và
tôi cũng không có dịp hỏi thêm nữa song thường vẫn nhớ mỗi khi cần phải điểm lại những ngô nghê của mình
cũng như của bè bạn thuở trẻ.
Quan sát
Xuân Quỳnh lúc đã trưởng thành, tôi nhận ra một sự thực là có mối liên
hệ trực tiếp giữa thơ Quỳnh và đời Quỳnh. Gặp chuyện gì gây xúc động, con người
này phải tìm cách ghi bằng được dấu ấn của nó trong lòng mình bằng
thơ. Nói cách khác, Quỳnh đã làm thơ cho mình trước khi mang nó đến với mọi
người. Qua theo dõi từng bài thơ của Quỳnh - dĩ nhiên là chỉ những bài quan
trọng -, người ta có thể lần ra rồi dựng
lại tiểu sử nhà thơ.
Nhưng trong trường
hợp này -- những năm Xuân Quỳnh mới đến với thơ -- các bằng chứng thi ca đó hoàn toàn vắng thiếu.
Mọi cánh cửa đều đã
khép lại.
Vậy chúng ta hãy tạm
bằng lòng với câu chuyện giữa Quỳnh với Tuấn, người chồng chính thức đầu tiên.
Như Đông Mai đã nhận
xét, Tuấn là một thanh niên đẹp trai song tính tình hoàn toàn trái ngược với
Quỳnh. Quỳnh vui nhộn trong khi Tuấn lặng lẽ ít nói. Quỳnh thích một cuộc sống
tự nhiên phóng túng trong khi Tuấn còn câu nệ theo nếp sống của các gia đình
trung lưu thời ấy. Được cái Tuấn đối với Quỳnh bằng tất cả tấm tình chân thật. Người
con gái sớm thấy rõ những nhược điểm của Tuấn: “Anh ấy chỉ là những động tác cơ bản đẹp chứ chưa thành điệu múa, chỉ là
một bát phở ngon không có gia vị, chỉ là một cốt truyện hay chưa được viết
thành văn...”.
Đằng sau lối diễn tả hình ảnh mù mờ và không
chắc đã chính xác, những dòng thư gửi chị mai này chỉ cho thấy: Xuân Quỳnh cảm thấy ở
Tuấn còn thiếu một cái gì mà mình mong muốn, còn chưa có những phẩm chất để
Quỳnh mê mệt.
Nhưng chết nỗi Quỳnh
là một người tự tin, tự tin cả trong công việc, lẫn trong tình yêu. Yêu người
khác mình, vì mong người đó bổ sung cho mình.
Yêu người còn nghèo,
còn đơn giản vì tin khả năng làm cho người đó trở nên giàu có, trở nên phong
phú sinh động như mình mong mỏi.
Thậm chí, có lúc yêu cả người mà Quỳnh cảm
thấy chưa tốt, vì tin rằng mình sẽ có khả năng cảm hoá, làm cho người đó cao
đẹp, sang trọng hơn.
Lòng tin đó, sẽ theo
suốt Xuân Quỳnh trong những tình yêu về sau.
Lúc này đây, ở những
bước đường đầu tiên trong đời, lòng tin ấy của Quỳnh clà yếu tố chi phối tất cả. Bởi vậy, sau
khi nói với chị Đông Mai , mà cũng tự nhủ, rằng anh ấy (Tuấn) “tốt, rất tốt”,
Quỳnh quyết định trao thân gửi phận cho Tuấn (*)
Theo cách diễn giải của Đông Mai, Quỳnh hy
vọng rằng với tình yêu của mình “động tác
đẹp sẽ thành điệu múa, bát phở ngon sẽ có gia vị, cốt truyện hay sẽ được viết
thành văn”.
Khi lòng Quỳnh đã
quyết vậy, thì thơ Quỳnh cũng hướng cả về với Tuấn.
Bài thơ Ghét
không phải loại thơ hay ở Xuân Quỳnh. Được cái, nó có giọng kể hồn nhiên và khá
nhiều những chi tiết liên quan đến đôi bạn trẻ. Nhân vật chính ở đây cùng một
anh kéo đàn và một cô ở đội múa. Hai bên lúc đầu xung khắc, vì chưa hiểu nhau.
Song dần dần, trong công việc họ nhận ra vẻ
đẹp của nhau, và lại đến với nhau một cách hồn hậu. Nhà thơ kết luận:
Ai biết đâu chữ “ghét ”
Là nhịp cầu nối duyên
Đây cũng là thứ
nghịch lý được nhiều bạn trẻ xác nhận.
Chung quanh bài thơ Chồi
biếc có một chuyện vui vui. Khi báo in ra, Xuân Quỳnh đến phân trần với Ngô
Văn Phú:
- Anh Phú ơi, bài của
tôi in rồi đấy. Nhưng ghét quá, đầu đề họ lại in sai là Trời biếc. Cải
lương chế thì còn ra quái gì nữa!
- Thế Quỳnh viết Chồi
tr hay ch?
- Tôi viết là Trồi
biếc.
- Thế thì họ in sai là phải. Nếu viết đúng là Chồi,
người ta không in sai được.
Xuân Quỳnh im lặng không nói gì. Câu chuyện về những
sơ xuất như thế này khá phổ biến trong giới, có điều, nó cũng tố cáo rằng Quỳnh
phạm những “phốt” rất căn bản.
Tuy nhiên, nội dung chính bài Chồi biếc thì có
phần sâu sắc hơn bài Ghét nói trên. Ta gặp ở đây một mô-típ của thơ tình
Xuân Quỳnh: đôi ta cũng chỉ là một trong muôn ngàn cuộc tình ở đời này. Rồi
cũng có lúc, chúng ta không còn trên mặt đất nữa. Nhưng lúc ấy, lại có những
đôi khác:
Và
rồi mai sau
Trên
đường này nhỉ
Những
đôi tri kỷ
Sóng
bước qua đây
Lá
vàng vẫn bay
Chồi non lại biếc.
Mô-típ này, chúng ta sẽ còn gặp trong phần cuối bài
thơ dài Những năm tháng không yên
hoặc bài Không đề , cả hai in trong Tự hát 1984, bài Thơ
tình cho bạn trẻ, in trong Hoa cỏ may, 1989.
Đây là một đoạn trong Thơ tình cho bạn trẻ:
Vẫn
con đường, vạt cỏ tuổi mười lăm
Mặt
hồ rộng, gió đùa qua kẽ lá
Lời
tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết
lời nào giả dối với lời yêu
Tôi
đã qua biết mấy buổi chiều
Bao
hồi hộp lo âu và hạnh phúc
......
......
Người
mới đến những nơi tôi từng đến
Lại con đường vạt cỏ tuổi mười lăm
Lại
hàng cây nghe tiếng thì thầm
Lời
thành thật, dối lừa trên ghế đá
“Nào
hạnh phúc, nào là đổ vỡ ”
Tôi
thấy lòng lo sợ không đâu
Muốn
giãi bày cùng ai đó đôi câu
Về
tất cả những gì rồi sẽ trải
Mong
rút ngắn dặm đường xa ngái
Để
cho người tới đích bớt gian truân
Bao
khổ đau sung sướng đời mình
Xin
tặng bạn làm bước thang hạnh phúc
Nhưng
tôi biết chẳng giúp gì ai được
Những
vui buồn muôn thuở đi qua
Khoảng cách giữa hai bài thơ là 27 năm.
Sự liên tục giữa hai bài thơ - một sự liên tục song
lại có phát triển -- cho thấy sự nhất quán của hồn thơ Xuân Quỳnh trước và sau.
Cũng có thể nhận ra sự nhất quán tương tự khi ta so
sánh bài Con tàu in trong Chồi biếc với nhiều bài thơ sau của
Xuân Quỳnh. Con tàu bắt nguồn từ cảm hứng về sự giao hoà giữa những
người yêu ở những phương trời xa cách nhau. Và bài thơ kết ở hai khổ cuối:
Tàu
sẽ dừng ga cuối
Xin
đừng vội ra đi
Cho
phút giây gặp gỡ
Đỡ lo giờ cách chia
Em
khác chi con tàu
Nay
đây rồi mai đó
Nên
cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ
Mô-típ lo sợ, lo về sự chia ly ngay trong gặp
gỡ, cũng như mô-típ cả lúc gần nhau vẫn nhớ, sẽ còn trở lại trong nhiều
bài thơ khác của tác giả.
Sau hết thành tựu đáng gọi là đỉnh cao của Chồi
biếc, phải kể là Thuyền và biển.
Được viết có lẽ
là trong chuyến Xuân Quỳnh ra đảo Cô Tô, bài thơ này cũng là một bài thơ tình
đặc sệt chất Xuân Quỳnh: tình không bao giờ thoả mãn, tình rất sợ cách xa. Sau
khúc dạo đầu hiền lành (Từ ngày nào chẳng biết - Thuyền nghe lời biển khơi -
Cánh hải âu sóng biếc - Đưa thuyền đi muôn nơi) và một vài đưa đẩy khác, là
đoạn định nghĩa về tình yêu.
Chỉ
có thuyền mới hiểu
Biển
mênh mang nhường nào
Chỉ
có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
(Không phải ngẫu nhiên, trong bản nhạc phổ thơ Xuân
Quỳnh, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đưa đoạn này vào ngay phần đầu)
Cao trào của bài thơ là ở tám câu cuối:
Những
ngày không gặp nhau
Biển
bạc đầu thương nhớ
Những
ngày không gặp nhau
Lòng
thuyền đau rạn vỡ
Nếu
từ giã thuyền rồi
Biển
chỉ còn sóng gió
Nếu
phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
Thơ tình Xuân Quỳnh là thơ tình của những kẻ không
chấp nhận bất cứ sự xa cách này, ngược lại lúc nào cũng muốn kề cận “như chim
liền cánh, như cây liền cành”.
Vì vậy, chỉ mới không gặp nhau một ngày mà đã bạc đầu
thương nhớ, lòng đau rạn vỡ, và nếu từ giã nhau, thì sóng gió nổi lên. Điều thú
vị cần nhớ đây không phải lời người con trai, mà lời tuyên bố của người con
gái. Để nói hết sự giận dữ (= tình yêu) ấy, người con gái cảm thấy hình ảnh
biển chỉ còn sóng gió chưa đủ, mà phải nhấn thêm hai câu cuối cùng: Nếu phải
cách xa anh - Em chỉ còn bão tố.
Không cường
điệu một chút nào cả, bão tố là chuyện có thật trong đời Quỳnh, dù chỉ là bão
tố trên những mảnh vườn hẹp.
--------
(*) Đầu 1968, khi tôi mới
về Văn nghệ quân đội, người chuyên
môn lo việc trình bày tạp chí là anh Hà Trì đã vui miệng kể với tôi chính đám
cưới Quỳnh là do Quỳnh lo liệu, chứ không phải Tuấn. Một người bạn thân của
Quỳnh, biết Quỳnh từ khi mới lập gia đình lần đầu còn nói rõ hơn chỗ khác căn
bản của Quỳnh với Tuấn là ở cách sống lối sống. Tuấn kỹ càng chỉn chu rất có
trách nhiệm với gia đình , nhưng theo một kiểu hơi cũ. Khi còn chưa lấy nhau có
lần, Tuấn rủ Xuân Quỳnh đi xem phim, nhưng tới nơi, thì đã thấy cả bà cụ đẻ ra
Tuấn. Và Tuấn xếp đặt để bà ngồi giữa, Quỳnh và Tuấn ngồi hai bên. Nhưng ở Tuấn lại
thiếu sự hào phóng rộng mở về tâm hồn.
Tuấn không thể hiểu nổi những nóng lạnh bất thường trong con người Quỳnh. Trong
khi Quỳnh quá tự tin ở cái ý tưởng có thể làm cho Tuấn thay đổi thì càng ngày
Tuấn chỉ càng bộ lộ sức ỳ của mình. Chính sự kéo dài không cần thiết của cuộc
hôn nhân này lại đã làm hỏng đời Quỳnh. Khi một nỗi khao khát quá lớn không thể
thực hiện nó sẽ là nguồn gốc của sự phá phách về sau, mà Quỳnh
thì trước sau vẫn tự tin ở sức cải hóa đối tượng bằng tình yêu và sự hy sinh vô
bờ của minh, đến nỗi trở thành nạn nhân của chính mình mà không hay biết và
không bao giờ công nhận. Gần đây, tôi đọc cuốn tự truyện Để gió cuốn đi của ca sĩ Ái Vân, thấy có sự gặp gỡ giữa đời hai nghệ sĩ. Họ cùng sai lầm trong cuộc kết hôn đầu tiên. Nhưng Ái Vân vừa biết mình sai làm là tính chuyện ly thân rồi ly dị liền, không để dây dưa rồi dẫn đến những đau đớn không cần thiết như Xuân Quỳnh. Ở chỗ này, tôi càng thấy Xuân Quỳnh thiệt thòi vì lớn lên mà không có được một gia đình đầm ấm, cụ thể là một người mẹ nhân ái và từng trải hướng dẫn. (Ghi thêm 12-2016)