Cả lời dẫn và bài viết dưới đây
đã đưa trên trang FB của tôi 22&23-11-15.
Xin giới thiệu lại để các bạn không dùng FB tiện theo dõi
Lời dẫn
Có nhiều việc trong xã hội hiện nay mọi người bàn một đằng cuối cùng những người có trách nhiệm lại quyết theo một cách khác.
Việc bỏ môn sử cũng vậy, ai cũng thấy là trái lè lè.
Song với một chút tâm lý A. Q. hoặc nói theo dân gian, “ đánh chẳng được thì tha làm phúc”, tôi nhìn thấy cái lợi của việc này như sau.
Khi nhìn vào việc học sinh ngày nay chán sử, người ta chỉ quy trách nhiệm cho cách dạy sử trong nhà trường.
Nhưng tôi cho rằng cái lỗi chính ở đây là thuộc về nội dung môn sử mà người ta đang dạy suốt từ tiểu học đến đại học cùng là các loại sách tham khảo có tính phụ họa.
Nói nôm na thì với nội dung các bài sử mà người soạn sách được phép viết và người giáo viên được phép dạy, có đến thánh cũng không làm cho học sinh yêu môn sử được.
Trong các bộ sử đã viết mấy chục năm nay cũng có những phần rất tốt, học sinh rất cần biết , mọi công dân Việt cũng cần biết.
Nhưng lúc mang ra dạy chúng bị lẫn đi, bị lọt thỏm đi, giữa các kiến thức giả mạo khác.
Hàng giả hiện nay rất đa dạng.
Có khi không đầy đủ không toàn diện không nhấn mạnh cái đáng nhấn mạnh... cũng đã là giả rồi.
Rút cục, cái hy vọng qua môn sử như thế này góp phần vào việc đào tạo những con người có học vấn có nhân cách những công dân yêu nước theo nghĩa hiện đại và khoa học nhất của khái niệm yêu nước thời nay… chỉ là ảo tưởng.
Mà trước mắt nhu cầu viết lại sử đến bây giờ vẫn chưa được đặt ra trong xã hội, chứ đừng nói là được chuẩn bị.
Bởi vậy, theo tôi dù rất đau lòng cũng có thể bảo nhau chấp nhận tạm bỏ môn sử.
Mục đích của việc này là tránh cho lớp trẻ phải học những kiến thức sai lạc.
Nhiều kiến thức sử ở nhà trường hiện nay chỉ có cái vỏ sử. Thực tế nó là những điều mà người ta muốn nhồi vào đầu các em qua các môn công dân giáo dục với cách hiểu cổ lỗ và thực dụng về mấy chữ “công dân” cũng như mấy chữ “giáo dục” đặc trưng cho thời nay.
Vậy thà cứ để các em học các môn mà chính các em cũng đã hiểu thực chất ấy, rồi đối phó thế nào qua quýt cho xong, còn hơn là buộc các em lầm tưởng đó là những kiến thức cần yếu thực sự.
Chấp nhận bỏ sử ! Trong việc giáo dục con em, đã bao chuyện khác chúng ta bất lực, chứ có phải riêng chuyện sử này đâu.
Câu hỏi còn lại: sau đó ta phải làm gì, chứ chẳng nhẽ lại buông xuôi ?
Suy đi tính lại, tôi thấy hiện nay chỉ còn một cách là cả xã hội lo học lại sử. Học ở đâu? Học ở các bộ sử mà ông cha xưa đã viết từ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án …của các sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ .. tới các bộ sử viết trong thời Pháp thuộc như Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.
Còn nhớ những năm chống Mỹ ở Hà Nội ông sếp cao cấp trong ngành tuyên truyền là Hoàng Tùng thường cũng vẫn nói với cánh nhà văn nhà báo chúng tôi, có việc gì cần vẫn phải dùng bộ Việt Nam sử lược chứ các sách mới viết có dùng được đâu.
Bản thân tôi làm nghề nghiên cứu văn học, trong hai chục năm gần đây, trong khi tìm đọc các bộ sử VN do các tác giả nước ngoài viết, mới ngã ngửa người vì ngạc nhiên hóa ra họ cày xới các bộ sử cũ của ta rất kỹ.
Nói ra thì có vẻ nghịch lý: tôi học người ta cách đọc lại ông cha mình. Thế đấy!
Dần dà tôi hoàn toàn tin rằng để hiểu người Việt, cuốn sách cổ điển mà thế hệ trẻ cần đọc số một, không phải là Truyện Kiều mà là Đại Việt sử ký toàn thư.
Chắc có bạn đọc thắc mắc: dù là sách đã dịch từ chữ Hán cổ sang chữ quốc ngữ song làm sao mà đọc được cuốn toàn thư ông vừa nói tới đó.
Tôi sẽ bàn về chuyện này, trong một dịp khác. Hôm nay hãy mời các bạn đọc lại một bài của tôi
đưa trên mạng Thời báo Kinh tế Sài gòn 20- 10 -2011
http://www.thesaigontimes.vn/Home/giaitri/tanvan/63862/
CẦN MỘT THỨ SỬ HỌC KHÁC
đã đưa trên trang FB của tôi 22&23-11-15.
Xin giới thiệu lại để các bạn không dùng FB tiện theo dõi
Lời dẫn
Có nhiều việc trong xã hội hiện nay mọi người bàn một đằng cuối cùng những người có trách nhiệm lại quyết theo một cách khác.
Việc bỏ môn sử cũng vậy, ai cũng thấy là trái lè lè.
Song với một chút tâm lý A. Q. hoặc nói theo dân gian, “ đánh chẳng được thì tha làm phúc”, tôi nhìn thấy cái lợi của việc này như sau.
Khi nhìn vào việc học sinh ngày nay chán sử, người ta chỉ quy trách nhiệm cho cách dạy sử trong nhà trường.
Nhưng tôi cho rằng cái lỗi chính ở đây là thuộc về nội dung môn sử mà người ta đang dạy suốt từ tiểu học đến đại học cùng là các loại sách tham khảo có tính phụ họa.
Nói nôm na thì với nội dung các bài sử mà người soạn sách được phép viết và người giáo viên được phép dạy, có đến thánh cũng không làm cho học sinh yêu môn sử được.
Trong các bộ sử đã viết mấy chục năm nay cũng có những phần rất tốt, học sinh rất cần biết , mọi công dân Việt cũng cần biết.
Nhưng lúc mang ra dạy chúng bị lẫn đi, bị lọt thỏm đi, giữa các kiến thức giả mạo khác.
Hàng giả hiện nay rất đa dạng.
Có khi không đầy đủ không toàn diện không nhấn mạnh cái đáng nhấn mạnh... cũng đã là giả rồi.
Rút cục, cái hy vọng qua môn sử như thế này góp phần vào việc đào tạo những con người có học vấn có nhân cách những công dân yêu nước theo nghĩa hiện đại và khoa học nhất của khái niệm yêu nước thời nay… chỉ là ảo tưởng.
Mà trước mắt nhu cầu viết lại sử đến bây giờ vẫn chưa được đặt ra trong xã hội, chứ đừng nói là được chuẩn bị.
Bởi vậy, theo tôi dù rất đau lòng cũng có thể bảo nhau chấp nhận tạm bỏ môn sử.
Mục đích của việc này là tránh cho lớp trẻ phải học những kiến thức sai lạc.
Nhiều kiến thức sử ở nhà trường hiện nay chỉ có cái vỏ sử. Thực tế nó là những điều mà người ta muốn nhồi vào đầu các em qua các môn công dân giáo dục với cách hiểu cổ lỗ và thực dụng về mấy chữ “công dân” cũng như mấy chữ “giáo dục” đặc trưng cho thời nay.
Vậy thà cứ để các em học các môn mà chính các em cũng đã hiểu thực chất ấy, rồi đối phó thế nào qua quýt cho xong, còn hơn là buộc các em lầm tưởng đó là những kiến thức cần yếu thực sự.
Chấp nhận bỏ sử ! Trong việc giáo dục con em, đã bao chuyện khác chúng ta bất lực, chứ có phải riêng chuyện sử này đâu.
CÓ
NHỮNG VIỆC LÀM THÌ RẤT KHỔ, KHÔNG
LÀM THÌ SẼ KHỔ HƠN
Cách đây ít lâu tôi từng khuyên các gia đình nghèo là trong tình hình
hiện nay nên lo cho con học xong trung học cơ sở rồi chuyển đi học nghề,
còn hơn là học lên cao.
Đề nghị của tôi lần này cũng ở dạng tương tự. Câu hỏi còn lại: sau đó ta phải làm gì, chứ chẳng nhẽ lại buông xuôi ?
Suy đi tính lại, tôi thấy hiện nay chỉ còn một cách là cả xã hội lo học lại sử. Học ở đâu? Học ở các bộ sử mà ông cha xưa đã viết từ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án …của các sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ .. tới các bộ sử viết trong thời Pháp thuộc như Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.
Còn nhớ những năm chống Mỹ ở Hà Nội ông sếp cao cấp trong ngành tuyên truyền là Hoàng Tùng thường cũng vẫn nói với cánh nhà văn nhà báo chúng tôi, có việc gì cần vẫn phải dùng bộ Việt Nam sử lược chứ các sách mới viết có dùng được đâu.
Bản thân tôi làm nghề nghiên cứu văn học, trong hai chục năm gần đây, trong khi tìm đọc các bộ sử VN do các tác giả nước ngoài viết, mới ngã ngửa người vì ngạc nhiên hóa ra họ cày xới các bộ sử cũ của ta rất kỹ.
Nói ra thì có vẻ nghịch lý: tôi học người ta cách đọc lại ông cha mình. Thế đấy!
Dần dà tôi hoàn toàn tin rằng để hiểu người Việt, cuốn sách cổ điển mà thế hệ trẻ cần đọc số một, không phải là Truyện Kiều mà là Đại Việt sử ký toàn thư.
Chắc có bạn đọc thắc mắc: dù là sách đã dịch từ chữ Hán cổ sang chữ quốc ngữ song làm sao mà đọc được cuốn toàn thư ông vừa nói tới đó.
Tôi sẽ bàn về chuyện này, trong một dịp khác. Hôm nay hãy mời các bạn đọc lại một bài của tôi
đưa trên mạng Thời báo Kinh tế Sài gòn 20- 10 -2011
http://www.thesaigontimes.vn/Home/giaitri/tanvan/63862/
CẦN MỘT THỨ SỬ HỌC KHÁC
Từ đầu thế kỷ 20, một
trí thức nổi tiếng là Hoàng Cao Khải trong cuốn Việt sử yếu (viết
năm 1914) đã nhận xét rằng bao đời nay, người Việt mình thường tỏ ra thạo sử
Trung Quốc hơn sử Việt. Từ các sĩ phu và quan lại, tình hình này lan ra đến
đông đảo dân chúng.
Có thể giải thích hiện
tượng này bằng chế độ thi cử ngày xưa. Người ta chỉ cho thi Bắc sử. Và các
trường học - dù là chốn Quốc tử giám của triều đình hay lớp học tự phát của một
ông đồ nghèo ở một làng quê hoang vắng - đâu đâu người Việt cũng hình dung cuộc
đời này qua các trang sử từ đời Trụ Kiệt đến đời Đường Tống...
Trong khi đó thì bên
phần Nam sử, một vài bộ như Toàn thư, Cương mục, Việt sử tiêu án, Lịch
triều tạp kỷ... mà ngày nay ta tự hào, thật ra là quá ít ỏi và chưa bao giờ
được mang lưu hành rộng rãi và đưa ra giảng dạy.
Đến thời chúng ta, tình
hình lại đi theo một hướng khác, nhưng kết cục vẫn như xưa.
Những bộ sử thời nay do
Nhà nước chỉ đạo biên soạn. Sự định hướng về dân tộc tỏ ra quá mạnh, thậm chí
tôi còn muốn nói thẳng là lâu nay chúng ta chẳng chú ý gì đến lịch sử các dân
tộc khác, và đó là một nhược điểm, nó hạn chế ngay sự hiểu biết của chúng ta
khi muốn quay về nhận diện chính mình.
Thế nhưng tại sao thanh
thiếu niên cũng như nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc, và qua phim ảnh, thấy thích
sử Tàu hơn sử ta?
Nhiều người cho rằng sở
dĩ như vậy là vì người Trung Quốc có nhiều tiền hơn, làm ra những thước phim
mùi mẫn hơn.
Không, không phải vậy,
hoặc lý do chủ yếu không phải vậy.
Cái lỗi trước hết là ở
chính những cuốn sử đã viết, trong đó hạt nhân là khái niệm sử mà chúng ta đang
sử dụng.
Ở những trang sử Trung
Quốc, không chỉ có những ông vua, khi là minh quân khi là bạo chúa chuyên chế,
như Càn Long, như Tần Thủy Hoàng, mà còn có Tào Tháo gian hùng, Bao Công hiểu
rõ tình đời đen trắng, Kỷ Hiểu Lam chăm chỉ học hành, Bạch Cư Dị sau khi đổi
việc quan được dân chúng lưu luyến đưa tiễn... Đủ loại sắc thái nhân văn khác
nhau nối tiếp hiện ra trong bộ mặt con người Trung Hoa, được vẽ trong những
trang sử ấy. Và đằng sau đó là hình ảnh của cả xã hội trong suốt chiều dài thời
gian mà mặc dù chúng ta khi thì căm ghét, khi thì ghê rợn, song bao giờ cũng
thấy hấp dẫn, đã biết rồi còn muốn biết nữa.
Quay trở lại với những
gì được viết trong các bộ sử Việt Nam, mà khuôn mặt tiêu biểu thì thấy rõ nhất
trong các sách lịch sử đang dùng ở các trường phổ thông và đại học. Đây tôi
không nói về những gì đã xảy ra trong đời sống lịch sử ngàn năm của dân tộc,
tôi chỉ muốn nói cái nó còn được ghi trong sách vở và truyền tụng giữa các đời.
Ở những trang sử ta viết
cho ta, trên cái nền là một ít sự kiện nghèo nàn, không có những con người mà
chỉ có những hình nhân với một vài lời lẽ, hành động đôi khi cũng ấn tượng,
nhưng quá nghèo nàn, đơn sơ. Đọc những trang viết khô khan cằn cỗi đó, thật
không hình dung ra trong hàng chục thế kỷ qua, cộng đồng chúng ta đã ăn ở, sinh
hoạt ra sao, quan hệ với nhau thế nào. Lại càng không thể từ đó rút ra những
gợi ý về kiếp làm người của mình hôm nay. Bởi những bài học mà người viết sử
gửi kèm chỉ là những kiến thức chính trị nông cạn, hời hợt, đến với người ta
theo lối áp đặt gượng gạo.
Sức phản cảm mà nó gây
ra trong lớp trẻ thật ra là điều nhiều người đã thấy từ lâu rồi, chẳng qua tất
cả cố tình làm ngơ vì biết rằng vô phương cứu vãn.
Cái lỗi không phải chỉ
là do mấy người soạn sách giáo khoa. Cái lỗi ở đây là của những người làm sử.
Và suy đến cùng là sự hạn chế, nếu không muốn nói là nghèo nàn, kém cỏi trong ý
thức lịch sử của cả xã hội.
Vấn đề là ở tư duy lịch
sử của người Việt.
Chúng ta là một cộng
đồng mải chinh chiến hơn là xây dựng. Trong quá khứ, chúng ta dành quá ít thời
gian và tâm trí để suy nghĩ về chính mình, tìm sự thật về chính mình... Đó
không chỉ là tình hình có thật trong cuộc sống của người Việt từ lúc khởi
nguyên và kéo dài suốt vài trăm năm gần đây, mà cũng là của thời đương đại.
Trong hoàn cảnh nước sôi
lửa bỏng của chiến tranh và cách mạng, nền sử học vốn rất còi cọc yếu đuối hôm
nay chỉ dồn sức vào làm cho được nhiệm vụ trước mắt là giáo dục mọi người sẵn
sàng ra trận, chứ sức đâu mà đáp ứng nổi cái nhu cầu tự nhận thức, cũng tức là
nhu cầu soi lại quá khứ để xác định tương lai.
Ngay trong cái phần tốt
đẹp nhất của nó, nền sử học mà chúng ta có cho đến hôm nay là một thứ sử học
của tồn tại mà không phải là một thứ sử học dành cho một cộng đồng muốn phát
triển. Tóm lại là vậy.
Cái việc lớp trẻ hiện
nay từ chối sử học thật ra có một tác dụng tích cực.
Đã đến lúc chúng ta phải
nghĩ tới một thứ sử khác, sinh động hơn, có hình ảnh con người nhiều hơn và
nhất là đáp ứng nhu cầu của tương lai mạnh mẽ hơn.
Nghịch lý cuối cùng chỉ
là trong khi những đòi hỏi đã cấp bách lắm rồi, thì những điều kiện cần thiết
không biết bao giờ mới hội tụ đủ.