QUÀ VẶT
& CÂU CHUYỆN VỀ SỰ TIẾN HÓA
& CÂU CHUYỆN VỀ SỰ TIẾN HÓA
Yên Ba: Trong một bài phiếm luận, anh đã nói đến văn hoá quà vặt. Trong văn học cái sự “quà vặt hóa” này diễn
biến ra sao?
Vương Trí Nhàn: Phần trên tôi đã
nói chính những người Trung quốc cũng
công nhận họ phải đi theo quy luật chung
mọi nền văn hóa trên thế giới. Bất chấp việc xã hội ta các nhà văn ta có muốn
hay không, rồi ở VN cũng vậy. Nó sẽ trải qua mọi bước suy đồi mà các nền văn học đều
có, thậm chí nếu ở VN sự suy đồi ấy có thê thảm hơn cũng là tự nhiên.
Nay đang là thời hậu chiến. Nhà nước thì cố gắng giữ lấy nền văn hóa hàn lâm nửa mùa theo kiểu “văn dĩ tải đạo”. Nhưng nay là lúc nội lực của các nhà văn đang cạn kiệt mà cơ quan chỉ đạo cũng không còn kỳ vọng nắm cổ văn nghệ một cách quyết liệt như cũ. Miễn là nhà văn đừng có lớn tiếng phản đối là được, ngoài ra người ta sẵn sàng chấp nhận họ là một đám công chức loàng xoàng, nuôi báo cô qua ngày. Nhiều người cầm bút hiểu và chấp nhận. Một mặt nhênh nhang làm hàng giả ăn lương. Mặt khác lầy phầy chơi bời hoặc ngồi chửi đổng. Công chúng cũng vậy. Công chúng đã mất hết khả năng săn tìm những giá trị lớn, bao gồm cả văn học cổ điển. Nay công chúng phần lớn chỉ thích cái thứ gì chiều nịnh họ giải khuây cho họ giúp họ lảng tránh những vấn đề trước mắt .
Nay đang là thời hậu chiến. Nhà nước thì cố gắng giữ lấy nền văn hóa hàn lâm nửa mùa theo kiểu “văn dĩ tải đạo”. Nhưng nay là lúc nội lực của các nhà văn đang cạn kiệt mà cơ quan chỉ đạo cũng không còn kỳ vọng nắm cổ văn nghệ một cách quyết liệt như cũ. Miễn là nhà văn đừng có lớn tiếng phản đối là được, ngoài ra người ta sẵn sàng chấp nhận họ là một đám công chức loàng xoàng, nuôi báo cô qua ngày. Nhiều người cầm bút hiểu và chấp nhận. Một mặt nhênh nhang làm hàng giả ăn lương. Mặt khác lầy phầy chơi bời hoặc ngồi chửi đổng. Công chúng cũng vậy. Công chúng đã mất hết khả năng săn tìm những giá trị lớn, bao gồm cả văn học cổ điển. Nay công chúng phần lớn chỉ thích cái thứ gì chiều nịnh họ giải khuây cho họ giúp họ lảng tránh những vấn đề trước mắt .
Văn hóa quà vặt ra
đời là vậy.
Đại khái, có thể
kể ra những dấu hiệu chính của một nền
văn học được làm theo kiểu quà vặt.
-- Có khả năng đáp
ứng một cách linh hoạt những yêu cầu xã hội nhưng nhìn kỹ sản phẩm làm ra toàn
những thứ lụn vụn không có giá trị thực.
-- Sự nhạy cảm
không đi kèm với một khả năng suy nghĩ sâu sắc. Một sự sáng tạo thường trực
nhưng trình độ lại loàng xoàng. Giống như các loài sinh vật bậc thấp, đẻ nhiều
đẻ khỏe để rồi mỗi kiếp sống lại là sớm nở tối tàn...
Một mặt phải công
nhận đời sống văn hoá có vẻ nhộn nhịp, sôi nổi, sặc sỡ, song mặt khác lại cứ
có chút gì như là làm cho vui thưởng thức cho vui, chứ không phải là cái thiết yếu không có không được. Và cũng không thiếu những cái độc hại -- độc hại theo tiêu chuẩn nhân bản nhân văn chứ không phải theo con mắt các nhà chính trị.
Tại sao lại nẩy sinh khuynh hướng quà vặt đó?
“Bao lần đất
nước đứng lên – Bởi vì đất mỏi cho nên đất nằm”. Câu thơ này Xuân Sách làm để khái quát quá trình cầm bút của Nguyên Ngọc. Nó không đúng với tác giả Đất nước đứng lên vì tới nay ông vẫn còn hăng hái lắm, dù chỉ là
hăng hái trong các hoạt động xã hội chứ không phải chuyên về sáng tác. Nhưng sự mỏi mệt ấy lại là bước đường phải tới của cả nền văn chương tuyên huấn cứng quèo hôm qua. Mượn thuật ngữ của tâm lý học, đây chính là một
dạng của stress. Trước áp lực quá lớn của đời sống hiện đại, người ta
sinh ra lảm nhảm không tự biết mà cũng không cần biết. Mệt quá,
cho phép mình ngả ngốn chơi bời rồi tự biện hộ rằng như thế là tự do,
là không phò chính thống.
Xu thế quà vặt là
kết quả của một phức hợp tâm lý mà tôi tạm diễn tả như sau. Một mặt mọi người
ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy có ngay một cái gì đấy, với người
viết nó là chuyện khẳng định thành
tựu tài năng, mà với bạn đọc nó là nhu
cầu tiếp nhận hưởng thụ văn chương. Mặt khác, trình độ khả năng thì có hạn; không những nhà văn chưa thể làm một cái gì gọi là lớn lao mà chính bạn đọc
cũng chưa thấy cần phải có cái lớn lao đó. Tinh thần thực dụng đã chi phối tất
cả. Chúng ta luôn dễ dãi với nhau, không phải chỉ là chuyện khen tụng vuốt ve
nhau trên báo chí, mà trong rất nhiều chuyện lớn nữa. Ví dụ đưa một tác giả vào
cho học sinh học ở nhà trường rất dễ dãi. Cả những cái không đáng là văn chương
cũng được giới thiệu trang trọng cho học sinh sinh viên. Tôi là người phản đối đưa văn học sau năm 1945
vào giảng dạy ở nhà trường một cách quá mức. Ở ta có thói quen là đưa văn
chương vừa in ráo mực vào trường học, lấy cớ rằng muốn văn chương phục vụ chính trị cần đưa cái mới vào cho kịp
thời. Tôi đáp lại: Hãy giảng dạy văn học cổ điển nhiều hơn nữa, còn với thứ văn
chương vừa viết ráo mực, cần phải có độ lùi, có thử thách. Các nhà văn muốn lớp
trẻ đọc, thì đến mà nói chuyện với họ
thuyết phục họ, đừng bắt họ phải học.
Có
vẻ như anh rất thích tìm ra mối liên hệ giữa văn chương và đời sống, thích giải thích văn chương bằng
đời sống.
Đó là một hướng suy nghĩ cần thiết, “Văn học
ta tầm thường bởi đời sống ta quá tầm thường “-- bản thân tôi những năm gần đây luôn luôn bị ám ảnh bởi cái
ý tưởng đơn giản đó.
Thời tôi bắt đầu
cầm bút tức năm chục năm trước, văn chương khô hạn trong xu thế khổ hạnh. Nay
thì văn chương bung ra, bề ngoài thực lắm đề tài lắm giọng điệu, xem kỹ hóa ra
lại một thứ công thức mới, bắt nguồn từ việc học đòi thô thiển. Nhưng đó không phải tội riêng của văn chương, nó là cái
hướng vận động của đời sống. Nhiều người
bây giờ sống vội quá, ham làm giàu, ham hưởng thụ, buông thả bừa bãi. Họ cho
đó là mới là đang tiến kịp trào lưu thế giới. Khuyến khích nhau làm giầu là
cần, nhưng cần hơn là bảo nhau đừng làm để mà làm, mà phải đặt yêu cầu cao với
những thứ đang làm, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và tìm cách đạt được chuẩn
mực quốc tế. Tại sao hàng Tầu tràn ngập phố xá cửa hàng xứ mình? Là do họ làm rẻ và tốt hơn, còn hàng ta
vừa đắt vừa xấu. Văn chương, phim ảnh mình mới ít mà đã lạm phát. Sản xuất lắm
phim làm gì, trong khi phần nhiều phim chẳng ra phim. Làm thơ cũng thế, dịch
sách cũng thế.
Sự dung tục vốn sẵn trong văn hóa dân gian là bộ phận nòng cốt của văn hóa ta. Kiểu như thời
Trạng Quỳnh thi vẽ với sứ Tàu thì chấm
mười ngón tay vào mực mà vẽ thành mười con giun rồi cười đắc chí. Nay lối láu cá đó lại trở thành
phong cách thời đại. Ngồi ở hàng nước, mấy cậu thanh niên nói tục xong rồi cười
hô hố với nhau; trên ti vi cũng thi nhau cười những cái không đáng cười. Bệnh
dung tục bộc lộ từ trong cách làm việc
lẫn cách ăn nói, quan hệ và rõ nhất
trong khẩu vị khi thưởng thức những trò vui chơi giải trí. Đạo diễn Nguyễn
Đình Nghi hồi còn sống thường than phiền với tôi rằng sân khấu hiện nay không
thể phát triển được bởi vì không có một không khí sân khấu thực sự. Người ta đi
xem kịch buồn cười lắm, khán giả nhiều nơi vừa xem, vừa cắn hạt dưa và nói
chuyện, càng những đoạn nhố nhăng thì
càng có nhiều tiếng cười thích thú. Làm sao có thể đề cao những khán giả ấy
được, và với những khán giả ấy, làm sao
có thể đòi hỏi sân khấu đi lên? Chuyện gì cũng coi như chuyện đùa ư? Đó là cái chết ! Tôi không muốn đùa theo kiểu
ấy, tôi luôn nghĩ rằng phải nghiêm túc trong công
việc, nghiêm túc còn chẳng ăn ai, nữa là vẩn vơ đùa bỡn.
Phải anh muốn nói
rằng mọi thứ văn chương văn hóa sặc sỡ hiện
nay chẳng phải là một điều đáng tự hào ?
Tôi biết, tôi từng “đọc” thấy lối tự hào đó trong
tâm lý của những người trong cuộc. Khi của làm ra chẳng có gì hơn, người ta
quay về tự ca tụng. Rồi sự tự hào này lại được chính các ông chủ văn nghệ công nhận.
Họ phải công nhận vì văn nghệ thành công tức là họ có thành tích; trong sự dắt
dẫn, họ đã có công lớn. Xin nói tiếp về mối liên hệ giữa văn chương và đời
sống Hãy nhìn vào sự sản xuất nói chung. Hàng hoá chúng ta làm ra nhiều, nhưng không
có cái gì độc đáo mới lạ càng không bao giờ theo kịp nhu cầu con người hiện đại.
Nhà xây nhiều nhưng không có nổi một khu phố đẹp. Chung quanh các con đường
giao thông huyết mạch xứ sở, các thành phố phình ra và cả nước gợi ra hình ảnh
con người có bộ ruột khổng lồ. Tất cả cứ làng nhàng mà tồn tại bên nhau. Cách
làm ăn này nay cũng đang chi phối cả sự sản xuất tinh thần. Các điệu múa giống nhau.
Các tượng đài lặp đi lặp lại. Các tiết mục sân khấu đều kết thúc có hậu. Về số lượng cái làm ra viết ra chưa phải là nhiều nhưng vì kém chất lượng nên người ta đã thấy bội thực. Chắc chắn nó sẽ không có chỗ đứng trong đời sống tương lai. Nói nay là lúc người ta làm để mà làm là với nghĩa đó. Nói
riêng về phê bình văn học, trong khi viết, các đồng
nghiệp của tôi nếu không tán tỉnh nhau một cách lộ liễu, thường cũng chỉ cãi nhau quanh
một vài chuyện linh tinh, rồi bẻ câu, bẻ chữ, vặn vẹo nọ kia mà không đặt ra những vấn đề lớn của cả nển văn học để
cùng nhau suy nghĩ và giải quyết. Tầm nhìn của một con người của một cây bút quá hạn
hẹp. Thường tôi bị tẩy chay vì hay chê quá, nói cho lịch sự là đòi hỏi cao quá cầu toàn quá. Nhưng, một cách tổng quát, tôi
cho văn chương thời nay không chỉ kém văn chương thế giới mà ngay trong phạm vi
nước mình mà nói với nhau thôi, các nhà văn thời nay kém xa các thế hệ đi trước.
Thật là một điều oái oăm nhưng tôi có cảm tưởng chính cái mà con người hiện nay
thiếu, lại là lý tưởng, là sự ao ước, là sự tự tin, tin rằng nếu cố gắng và làm
việc theo phương hướng đúng, chính mình và những người quanh mình có thể vươn
tới những đỉnh cao chứ không phải lúc
nào cũng lờ đờ lẹt đẹt như thế này. Bởi thiếu đi cái khát vọng lớn là vấn đề
của cả phong trào chung nên trên đại thể chúng ta đang trở nên tầm thường. Và nếu bây giờ còn có
người ham học ham làm thì mọi sự chăm
chỉ, chịu ngồi vào bàn, chịu viết chịu in, rồi cũng đến trở nên vô nghĩa. Trong số các quy luật sinh học, tôi nhớ có cái
quy luật này liên quan tới tiến hóa: đó phải là sự tiến hóa của cả quần thể.
Không thể có tiến hóa ở từng cá thể riêng lẻ.