Cái
đồng hồ của người Việt Nam là tên một bài báo của Phan Khôi in trên Phụ nữ
tân văn 1931. Trong bài viết ấy, nhà báo họ Phan cho rằng nhiều người hồi
bấy giờ dùng đồng hồ chẳng qua bắt chước người Âu - Mỹ để trưng diện ra cho đẹp, chứ
chẳng mấy khi coi giờ: nói chung, với người Việt Nam đầu thế kỷ XX thì giờ ( = thời gian ) không phải là
chuyện đáng để ý, ai ai cũng một tâm lý cơm vua ngày trời, được đến đâu hay đến
đấy.
thời
gian của sự bình lặng, thời gian tính bằng tháng năm
Những
nhận xét của ông nhà báo nổi tiếng là gàn bởi hay nói thẳng này không phải là
vô lý.
Sự bình lặng là đặc điểm chủ yếu làm nên nhịp
sống của xã hội Việt Nam thời trung đại và nó cũng còn kéo dài cho đến thời
Pháp thuộc.
Trong
hoàn cảnh một nền kinh tế tiểu nông, sự làm ăn trông chờ cả vào mưa thuận gió
hoà, người ta không thể nào có được một thái độ tự giác về thời gian, như ở các
nước công nghiệp phát triển. Ngày tháng trôi qua đều đều, hôm qua đã vậy, mà
mai đây cũng vậy, năm trước là hình ảnh gợi ý của năm sau.
Cảm
giác này còn thấy rõ khi đọc lại nhiều tác phẩm văn chương tiền chiến. Chẳng
hạn, trong Cô hàng xén, Thạch Lam ghi lại ý nghĩ của cô Tâm. “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu
kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi: chịu khó, chịu khó, từng
tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi, Tâm thấy ngày
nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng
chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều nhau”.
Còn
trong Hai đứa trẻ, tác giả cũng phác ra cho thấy cả một nhịp sống chậm
chạp, con người lấy việc làm theo nếp ngày hôm qua là chuyện tự nhiên. Thời
gian đi qua, nó không để lại dấu ấn gì rõ rệt ngoài lời hứa hẹn rằng tương lai
vẫn thế.
Xét
về tầm vóc lớn lao và mức độ tác động tới xã hội, thì cuộc Cách mạng tháng Tám
và hai cuộc kháng chiến tiếp theo là những sự kiến lớn làm thay đổi cả hướng đi
của lịch sử dân tộc.
Thế
nhưng điều kỳ lạ là ở chỗ con người làm nên những biến chuyển đó bằng một tâm
lý rất thoải mái. Khẩu hiệu trường kỳ kháng chiến thấm vào tâm thức mọi người.
Sự từ tốn bền bỉ được khai thác để chống lại sức mạnh của máy bay trọng pháo.
Ngành nào cũng có những người đi bộ hàng tháng trời từ khu Bốn, khu Năm ra Việt
Bắc họp, rồi lại đi bộ hàng tháng trời trở về công tác bình thường.
Thời
gian lúc ấy hình như tính bằng năm tháng chứ không tính bằng giây phút.
Cho đến thời kỳ chống Mỹ, tâm lý
đó vẫn còn phổ biến. Tôi nhớ có lần cánh phóng viên chiến trường bọn tôi từ mặt
trận B5 qua trạm T.70 miền Tây Vĩnh Linh đi bộ ra Hà Nội. Chúng tôi hoàn toàn
hiểu rằng đoạn đường mà sau này tính lại, đi mất gần một tháng - cánh lái xe
giỏi chỉ đi trong một ngày.
Và
để quên đi những mệt nhọc trên đường, chỉ còn có cách đùa bỡn:
-
Gớm cái “nước” Quảng Bình này rộng quá, đi mấy ngày không hết!
-
Có lẽ tới đây cũng phải mất từng ấy ngày để qua “nước” Nghệ An rồi mới sang
“nước” Thanh Hoá.
Có
một lý do khiến cho ngày ấy, không ai cảm thấy sốt ruột: ai cũng tính được là
có về đến Hà Nội thì vẫn sống theo một nhịp điệu nhẩn nha như vậy.
Đại
khái xếp hàng mua gạo cho gia đình mất cả buổi sáng là chuyện thường tình, mà
nếu không xếp hàng thì cũng chỉ ngồi họp hoặc đọc báo. Hà Nội hồi những năm
chiến tranh và cả chục năm sau đó là một thành phố rất thanh vắng, xe bò còn là
phương tiện vận tải được phép lưu thông ngay trên một số phố chính, và những
đôi tình nhân có thể đạp xe thong thả trò chuyện với nhau trên đường mà không
sợ làm phiền đến ai cả.
Quả
thực, giờ đây nghĩ lại, bên cạnh một thoáng cười mỉm về cái thuở ấu trĩ đã qua,
nhiều người vẫn không khỏi thèm nhớ sự thanh thản không biết vội của thời ấy.
thời gian nay là
tiền bạc ; hối hả, chụp giật, nhưng...
Bước
sang thời phát triển hỗn hào hiện nay, cuộc sống đã trở thành khác.
Một
nhịp điệu khác hình thành.
Và
một ý niệm khác về thời gian chi phối.
Báo
chí đưa tin Việt Nam trở thành một trong những nước tiến nhanh nhất trong việc
tăng số máy điện thoại trên đầu dân.
Nhìn
ra ngoài đường, vai trò của cái xe đạp hôm qua nay thuộc về cái xe máy mà tốc
độ, trên lý thuyết, có thể gần ngang với ô-tô. Không chỉ khách nước ngoài phàn
nàn, mà cả người trong nước, nhất là những người già, cũng đang e ngại về nỗi
xe máy ở ta đi cả trên vỉa hè và thường phóng nhanh đi sát tới chỗ gây tai nạn.
Ở nhiều ngã tư rất dễ bắt gặp cảnh xe máy cố vượt lên khi tín hiệu đèn đỏ đã
bật: với nhiều người, chưa bao giờ thời gian trở nên bức xúc như bây giờ!
Từ
chỗ là một thứ của kho vô tận và thuộc về mọi người, như khí trời, như nước
sạch, nay thời gian đã trở thành một thứ sở hữu cá nhân, nó được ý thức như một
giá trị to lớn và là ngọn nguồn của mọi giá trị khác. Cái câu cổ nhân xưa từng
nói thì giờ là tiền bạc, nay nhiều người mới thật thấm thía.
Tuy
nhiên, sẽ là vội vàng nếu như nói rằng một ý thức hoàn toàn mới về thời gian đã
ngự trị. Tốc độ cho phép của xe máy lên tới 50-60 km, nhưng ở thành phố, xe chỉ
chạy khoảng 20-30km gì đấy.
Từng người cố đi nhanh nhưng sự vận động của
cả khối người trên đường chẳng hơn xưa là bao.
Vả chăng nhiều người phóng xe máy như điên,
chẳng qua chỉ cốt để kịp có mặt trong một bữa nhậu, hoặc một buổi họp nhạt
nhẽo, và giá theo dõi một thanh niên luồn lách trên đường, vượt cả đèn đỏ ngã
tư, lát sau sẽ thấy anh ta ngồi hàng tiếng đồng hồ trong quán karaokê.
Sự chuyển pha còn dang dở: hiểu rằng thời gian là quý nhưng làm sao để
biến thời gian ấy thành giá trị thực sự, nhiều người vẫn không biết.
Nay
là lúc thấy thịnh hành ở cả giới buôn bán lẫn giới lao động trí óc (chẳng hạn,
các nhà sáng tác văn chương hoặc các cán bộ nghiên cứu khoa học) một lối làm ăn
tạm gọi là chụp giật. Hàng ngày chơi dài, chỉ thỉnh thoảng mới bắt tay vào
việc, song đã làm là tốc chiến tốc thắng, làm ù một cái cho xong.
Hãy
nhớ lại thời xưa, có những người cả đời chỉ theo đuổi một công việc chuyên môn
nào đó, và họ kiên trì làm đến cùng.
Có
cảm tưởng như họ cầm nắm được thời gian, cảm nghe được sự liên tục của nó, biết
hướng mình sống hoà thuận với nó. Nói như cách nói của sách vở: họ tin rằng
thời gian ủng hộ họ.
Cảm
giác ấy, niềm tin ấy, nhiều người ngày nay không có!.
thời
gian và đời sống tinh thần của xã hội
Nếu
như ở mỗi cá nhân, ý niệm về thời gian chủ yếu liên quan đến việc sử dụng ngày
tháng sao cho hữu hiệu, thì xét ở phạm vi cộng đồng, điều này chủ yếu bộc lộ
qua ý niệm về quá khứ hiện tại và tương lai mà cộng đồng đó đã và sẽ sống, từ
đó toát lên quan niệm về sự phát triển của bản thân cộng đồng trong quá trình
lịch sử.
Đây
là một vấn đề quá lớn, trong phạm vi của mình, chúng tôi chỉ xin nêu một nhận
xét nhỏ:
--
với người Việt hôm nay, thời gian vẫn đang được đơn thuần xem như một sự kéo
dài liên tục, hiện tại là sự kéo dài của quá khứ, và tương lai là sự kéo dài
của hiện tại.
--
Quá khứ chỉ được xác định một lần và cứ
thế mãi mãi tồn tại. Trong đời sống tinh thần chung của xã hội, cả quá khứ
gần (thời chống Pháp chống Mỹ) lẫn quá khứ xa xưa (thời Hùng Vương hoặc thời Lý
Trần) luôn luôn có mặt, nó đem lại cho hiện tại vừng hào quang sức nặng và lòng
tự tin và nó sẽ là nhân tố chủ yếu quy định tương lai.
- Ơi kháng chiến! Mười
năm qua như ngọn lửa,
Nghìn năm sau còn đủ sức
soi đường.
Chế
Lan Viên
Chính
trên cái mạch nghĩ chung ấy, quá khứ thường được hình dung bằng những phạm trù
giống như hiện tại, và nếu như trong các sáng tác văn nghệ, những anh hùng dân
tộc trong quá khứ có suy nghĩ nói năng hệt như con người thế kỷ XX thì cũng là
điều dễ hiểu.
“Khó
mà tìm được một tiêu chí khắc hoạ đầy dủ bản chất của văn hoá, như khái niệm
thời gian. Trong khái niệm ấy, thấy thể hiện đầy đủ cảm quan của thời đại về
thế giới, hành vi và ý thức của con người, nhịp điệu của cuộc sống”.
Một nhà nghiên cứu văn hoá người Nga, ông
A.Ju.Gurevich trong cuốn Những phạm trù văn hoá trung thế kỷ (đã có bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc Hiến, nhưng chưa bao giờ được giới nghiên cứu khoa học xã hội ở ta xem trọng) đã rất có
lý khi viết như vậy.
Do
chỗ ý niệm về thời gian liên quan đến văn hoá, nên chúng ta hiểu tại sao nhiều
người nước ngoài đến Việt Nam có ngay nhận xét về cách sử dụng thời gian của
người Việt.
Xu hướng chung ở đây là họ - nhất là người ở các nước Tây Âu - tỏ
ra khó thích ứng với cái kiểu tuỳ tiện “gặp đâu hay đấy”, “nước đến chân mới
nhảy” của chúng ta.
Nhưng gần đây, cũng đã bắt đầu thấy có xu hướng ngược lại.
Một hoạ sĩ người Đức kể lại rằng lúc đầu mới học làm sơn mài, bà thấy quá nặng
nhọc vì phải kiên nhẫn chờ đợi và đặc biệt phải nhạy cảm với những thay đổi bất
ngờ của màu sắc. Mãi sau bà mới phát hiện: qua quá trình lao động khá đơn điệu
đó, bà có điều kiện để “thấy thời gian thực sự là hiện hữu”. Đi xa hơn một bước
nữa, người phụ nữ này còn lấy cách nhìn của người Việt Nam hiện thời để quay
lại đánh giá cách sử dụng thời gian ở phương Tây. Bà tâm sự: “Sau khi được sống
trong một cuộc sống đầy màu sắc sinh động ở Hà Nội, chúng tôi cũng cảm thấy sẽ
có phần nào tẻ nhạt nếu trở lại những thành phố quê hương với lối sống quá công
nghiệp, quá khắc nghiệt về thời gian. Ở đó thậm chí chúng tôi chẳng có đủ thì
giờ quan tâm tới cái chết của người thân quen nữa”. (xem báo Thể thao và văn
hoá, số ra 24.11.2000).
Qua
người mà hiểu mình, cái quy luật có tính chất chủ đạo ấy trong nghiên cứu văn
hoá lần này lại được chứng nghiệm. Chép lại mẩu chuyện này ở đây, chúng tôi
chưa dám nói ngay rằng nhận xét của người hoạ sĩ kia đã chính xác hay chưa mà
chỉ nhằm lưu ý là chúng ta cần phải lắng nghe, phải đối chiếu so sánh rất
nhiều, phải biết thêm những cách nhìn khác về chính mình, thì mới đi tới chỗ tự
nhận thức một cách chính xác.
Trên báo Ngày nay số ra 12.9.1937, nhà
văn Thạch Lam trong một bài báo ngắn, sau khi kể lại rằng một người Pháp rất
khen tục thờ cúng ở ta, đã nói thêm “cái đó là tuỳ ông thôi, còn chúng tôi,
chúng tôi thấy chúng tôi quá trọng người chết, quên hẳn mất việc sống (...)
chen chúc nhau mà chết đói chứ không chịu đi đến những nơi khác để chen vai
thích cánh với người ta”.
Ở
đây, nhân bàn về một ý kiến người ngoài, Thạch Lam đã bắt đầu nhìn ra cái “thời gian lớn” là chuyện sống chết, và xem mục đích sử dụng là một trong những dấu hiệu làm nên ý niệm thời gian của một cộng đồng … Nhưng câu chuyện đã chuyển sang phạm vi triết học, chúng tôi chỉ
ghi lại như trên mà chưa biết bao giờ đủ sức để bàn tiếp.
Vốn là bài SỰ CHUYỂN PHA CÒN DANG DỞ,
in trong Nhân
nào quả ấy H. 2004 , có viết lại mấy
câu cuối.