Lúc thân tình, một bạn người Nga có lần nói thẳng với bọn tôi là cưới xin ở các anh sao mà kỳ thế, mỗi người
đến dự nộp một phong bì, tiền đặt trong phong bì thay đổi theo thời giá thị trường.
Không khí thường ồn mà nhạt.
Thiếu sự tự nhiên. Nghèo mà lại còn rơi vào xa hoa
nữa. Lễ cưới được làm để khoe, để trả nợ miệng hơn là vì chuyện tình yêu của
đôi trai gái.
Tôi nghe giật mình. Thấy
người nước ngoài người ta hiểu mình rõ quá. Nhất là thấy các phong tục ở ta
nhiều khi quá rườm rà. Rỗng. Hình thức lặt vặt. Quá phí phạm thời gian. Nó là
dấu vết của cách sống thời xa xưa, không hợp với đời sống hiện đại.
Chuyện Tết nhất cũng
tương tự. Đã là người Việt, ai chẳng nói đến ngày Tết với cả tấm tình rung
động. Mỗi người xem đây là dịp để trở về với tinh thần dân tộc. Vậy mà, như
cách chúng ta tổ chức hiện nay, thì ở đó có bao nhiêu cổ hủ, bao nhiêu đắp điếm
giả tạo, và ngày tết không khỏi trở thành là một dịp phô bầy ra cái sự lạc hậu
trong nếp sống nếp nghĩ đã từng ngự trị trong quá khứ, và ngày nay còn để lại
nhiều di lụy.
Diễn biến của sự đề cao phong tục
Cách cưới xin ở trên vừa
nói là vốn mang đậm dấu vết một thời làng xã xa xưa. Thời ấy, nghèo đói quá, phải
chờ đến ngày cưới mới được bữa no. Mỗi nhà không đủ tiền lo cho con, nên đành
làm lối chơi họ. Hôm nay tôi góp cho nhà anh, mai này anh góp cho nhà tôi. Góp
trước trả sau cũng có, mà trả trước đòi sau cũng có. Tình trạng đến ăn
cưới phải nộp phong bì chính là vết tích của cái thời nghèo khó trên diện rộng ấy.
Còn cách ăn tết?
Im lìm, lặng lẽ vốn là
đặc điểm của cuộc sống trầm lặng thời phong kiến. Nhân dịp xuân về, người ta
muốn kêu to lên về sự có mặt của mình trong cuộc đời. Những quả pháo được mượn để
nói hộ.
Nền sản xuất nông nghiệp
thời ấy mang nặng tính cách thời vụ. Khi bận thì bận tối mắt, nhưng ngoài ra
chơi dài. Quanh năm đói kém nên chờ đến ngày tết là có dịp xả láng. Chỉ riêng
câu ca tháng giêng là tháng ăn chơi
đã cho thấy nhịp điệu uể oải chậm chạp của một xã hội u tối.
Đặc điểm của
các xã hội hiện đại là sự thu nhập thường xuyên dồi dào dựa trên một nền
sản xuất năng động và kỷ luật chặt chẽ. Nghỉ ngơi và làm việc đã luân phiên cả
năm. Tự nhiên tết nhất không được phép kéo dài và mỗi người cũng không cần những
phong tục ngày Tết rườm rà làm khổ nhau như ở mình.
Phải gọi cách ăn tết dềnh
dang là phong cách trung cổ.
Cách gọi đó tôi học từ
Xuân Diệu.
Trên tạp chí Tiên Phong số ra ngày 16-2 1946, Xuân
Diệu có bài Tết độc lập thứ nhất và tết trung cổ cuối cùng.
Ông bảo cách đón Tết cho
thấy dân ta lười quá. Các cửa hàng không
chịu mở. Chẳng ai muốn làm gì, ngoài chuyện vui chơi. Đã thế, nó lại kéo
dài quá.
Sau khi kêu lên:
"Chúng ta chưa phải là những người lớn hay
sao? Chúng ta còn muốn là trẻ con hay sao?",
tác giả đề nghị :
"Chúng
ta [hãy] bỏ cái tâm hồn trung cổ, và quả quyết cải cách cái Tết thân yêu của
chúng ta, rút nó lại đúc nó thành hai ngày vui vẻ tin tưởng đầy đủ".
Bài viết kết thúc bằng
một câu được nhấn mạnh trong nguyên bản:
“Đúc Tết lại, tức là làm cho Tết mạnh thêm, mà kéo Tết dài, tức là giết
Tết”.
Lời lẽ hơi bốc, rõ ra
khẩu khí của một thời hào hứng, chưa biết đến chỗ khó trong lịch sử và lòng
người. Nhưng tinh thần trong cái bài trên đây của Xuân Diệu là tinh thần cách
mạng. Hai chữ cách mạng nói ở đây không phải là hè nhau đi đánh ai giết
ai. Mà chỉ có nghĩa muốn sống khác đi so với cách sống cũ.
Từ một cái nhìn lịch sử
Điều một Xuân Diệu 30 tuổi đề nghị chỉ là tiếp
tục cái xu hướng canh tân được khai phá bởi nhiều bậc trí giả từ trước 1945.
Trong thời kỳ hiện đại hóa thứ nhất, dưới sự
bảo trợ và cầm chịch của văn hóa Pháp, việc đẩy lùi nhiều phong tục cổ hủ được
tiến hành từng bước khá vững chắc.
Từ những năm đầu thế kỷ
XX, trong việc miêu tả các phong tục cha ông để lại, một nhà thâm nho như Phan
Kế Bính thường không bao giờ quên nhấn mạnh những mặt cổ hủ của nó.
Nhiều tiếng nói xuất sắc
trong văn học tiền chiến đều chung một ý hướng là đề nghị cộng đồng phải thay
đổi cách sống.
Và tinh thần đó lan ra
một cách từ tốn nhưng chắc chắn. Người ta có thể chưa làm được, nhưng đều biết
việc gì nên làm.
Cuộc cách mạng 1945 đón lấy cái xu hướng đó. Một trong những động cơ khiến nhiều trí thức đến với cuộc
cách mạng 1945 là người ta muốn đổi mới
thật triệt để.
Sau khi ra mắt(10-11-1945), tạp chí Tiên Phong– cơ quan của Hội Văn hóa Cứu
quốc - luôn có bài viết về đời sống mới.
Nhiều vấn đề phong tục tập quán được đặt lại. Trên số 19-8-1946 có bài Xây dựng con người của Nguyễn Đình Thi.
Số 2, ra ngày 1-6-1946, có bài bàn về Cải cách hôn nhân
mà tuy ký bút danh khác, song có người
bảo là của Nguyễn Huy Tưởng.
Xu hướng này cần mẫn kéo
dài và đi vào đời sống.
Những năm sáu mươi bảy
mươi của thế kỷ trước, các đám cưới cũng như Tết nhất ở Hà Nội của chúng tôi, đơn
giản mà vẫn thiêng liêng ấm cúng.
Giải thích một định hướng ngược
Thế tại sao ngày nay lại có cái sự lại gạo của các phong tục cổ hủ như
trên vừa nói?
Sự kiện chủ yếu của đời
sống dân tộc thế kỷ XX là cuộc chiến tranh ba mươi năm. Để tiến hành chiến
tranh thắng lợi, chúng ta phải phá vỡ nhịp sống thông thường. Không ai lo sống
cho ra sống nữa. Cách sống mới đồng nghĩa với
tính tự phát.
Bắt vào thời chiến, một số nếp sống hiện đại,
như chống mê tín, như tinh giản mọi lễ tiết , thiết thực, tiết kiệm… sở dĩ được
khuyến khích bởi nó thích hợp với tình trạng nghèo đói. Trong cảnh cái chết kề
bên, người ta mơ về thuở thanh bình, chẳng cần biết nó là cũ hay mới.
Tiếp đó là thời hậu
chiến. Với tâm lý của kẻ sống sót, con
người lúc này muốn truy lĩnh, muốn đòi
lại một cuộc sống dễ chịu để bù lại những ngày gian khổ đã qua. Và Tết thì thi
nhau làm thật linh đình, giá có nhắc chuyện tiết kiệm liền bị coi là cổ lỗ, lạc
lõng.
Cuộc chiến tranh ba mươi
năm là cuộc chiến tranh của nông dân. Những người nông dân nói theo chữ hồi
chống Pháp, là quân chủ lực.
Các phong tục vốn gốc
nông thôn, đi đâu người ta vẫn mang theo nó. Nhất là sau một thời chiến tranh
mà chiến thắng có được nhờ những nỗ lực to lớn của nông thôn và nông dân, người
ta càng thích quay về với truyền thống , bất kể là hay hay dở.
Kéo dài suốt hơn một nửa
thế kỷ, sự dang dở trong phong tục nói chung trong cách tổ chức tết nói riêng, ngày
càng trở thành sự lộn xộn.
Những mục đich ban đầu
của cách mạng bị xếp sang một bên. Cuộc cách mạng gần như đã bị đánh tráo. Các
thói hư tật xấu của giai cấp thống trị cũ nay được những cốt cán của chế độ mới
học theo. Còn nhân dân --một nhân dân bị đơn giản hóa và được chiều nịnh, lại
thiếu đi sự khai phá theo đời sống mới của giới trí thức làm đầu tầu - , một nhân dân như thế có ồ ạt quay về
với cái cũ cũng là dễ hiểu.
Bảo thủ trì trệ và khéo biện hộ
Nét đặc biệt của cuộc lại gạo lần này là đã có đủ loại lý
lẽ che chở. Việc quay về với cái lạc hậu được mệnh danh là sự trở về truyền
thống. Có cả một trò chơi, có sức lôi
cuốn đám đông, tạm gọi là trò “nhân danh phong tục”. Lấy cớ ai cũng làm vậy,
người ta một chiều xem việc theo sát phong tục xưa là điều tự hào, lâu lâu lại
tìm ra vài khía cạnh mới để lăng-xê mốt, coi như mình trở về nguồn kỹ càng tinh
vi lắm.
Không phải là lòng người
không cảm thấy sự cần thiết và khao khát những đổi mới trong cách sống. Nhưng tình
trạng đất nước cô lập kéo dài quá lâu khiến mọi người như mất tự tin, nhìn ra
thế giới chỉ thấy hoang mang. Nẩy sinh tâm lý nước đôi. Vừa muốn thay đổi vừa
không biết thay đổi như thế nào. Đối với cái mới vừa thèm vừa sợ. Âu là cứ lối
cũ mà làm.
Quan hệ của chúng ta với
phong tục tập quán xưa đang ở trong cái thế như vậy.
Từ hồi bước sang thời
thị trường, không phải không có những đám cưới được tổ chức theo lối thịnh hành
ở xã hội công nghiệp, nhưng thường là tân
cổ giao duyên. Người ta cứ mặc váy trắng ra chụp ảnh ở các công viên để rồi
ở cửa đại sảnh dẫn vào bàn tiệc không quên đặt hòm chờ phong bì. Lớp trẻ ở các
đô thị vừa đổ xô ra đường ăn tết theo
kiểu tây vào tết dương lịch, vừa quay về đi thả cá ngày ông công ông táo, đi hái
lộc đêm giao thừa, cùng là lên chùa xin thẻ, quay về đốt vàng mã và vào cuộc cờ
bạc đỏ đen trong mấy ngày đầu năm, như ông cha cả trăm năm trước.
Từ ngày Xuân Diệu viết bài báo nói trên đến
nay đã sáu mươi tám năm. Căn cứ theo tinh thần nhà thơ đề nghị, thì thấy, trong
hơn hai phần ba thế kỷ ấy, bên cạnh một số mặt đổi mới để hội nhập và tiến lên
theo con đường hiện đại hóa, trên phương
diện phong tục tập quán và những khía cạnh ẩn sâu trong tâm linh, có thể nói cộng
đồng chúng ta vẫn duy trì một nếp sống trung cổ và chưa biết ngày nào mới đủ
sức thay đổi theo hướng hiện đại.
Nhà xuất bản Hội nhà văn H. 1996 Tr 237-240