Không cần là một chuyên gia kinh tế, nhiều
người cũng đã biết rằng nền sản xuất và buôn bán của ta phụ thuộc nhiều
vào việc nhập khẩu hàng nước ngoài. Không chỉ dầu xăng thép phân bón thuốc trừ
sâu thuốc chữa bệnh.. mà ngay cả mấy hạt muối dùng trong công nghiệp hay nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc ta cũng
phải đi mua. Thời buổi thế giới biến động, nền kinh tế mình như cái phao, biển
động nổi gió một tí là dập dềnh theo, thiên hạ vừa hắt hơi một cái là mình đã
nước mắt nước mũi giàn dụa.
Nhưng hôm nay tôi muốn nói một khía cạnh khác của sự phụ thuộc. Thoạt nhìn, nó có vẻ không mấy đáng ghét, bởi chỉ là chuyện có vẻ bề ngoài, có vẻ tạm thời – như cách mọi người hay nói -- nhưng suy cho cùng, vẫn tố cáo một sự lệ thuộc sâu sắc của ta.
Sự phụ thuộc trong sinh hoạt
Phải tới những năm chiến tranh qua đi, dân Hà Nội mới biết và rỉ tai nhau là mấy khách sạn lớn nhất ở đây thường dùng rau và thịt chuyển từ nước ngoài về, chứ không dùng đồ mua từ các chợ quanh phố như dân bản địa.
Với tâm lý của kẻ sống trong thế giới trung cổ, nghe những chuyện đó, lập tức nhiều người thấy sao mà họ cầu kỳ và có phần rởm nữa. Sống ở đây mà tách ra như trên một hòn đảo, sao họ lạ vậy ?
Ai ngờ việc sử dụng cả lương thực ngoại nhập đó giờ đây lan ra trong nhiều tầng lớp dân thường người mình, nhất là sau các đợt phát hiện rau quả có phun hóa chất, còn các loại dịch bệnh trên gia súc gia cầm thì hoành hành, cứ chấm dứt được ít lâu lại bùng phát trở lại.
Ở đây tôi không dừng lại ở khía cạnh đạo lý của vấn đề mà chỉ vấn vương ở chỗ là hình như chính chúng ta đang không nuôi mình bằng các thứ thổ sản, không xài thứ hàng mà chính đồng bào trong nước chúng ta làm ra, -- mà sẵn sàng toàn dùng hàng hóa xuất phát từ các xứ khác do người khác làm.
Tại sao tình trạng này ngày một phát triển ?
Nghĩ tận căn nguyên thấy có hai lý do. Thứ nhất hàng ngoại rẻ và tốt. Thứ hai là nhiều khi hàng ngoại đáp ứng được cái nhu cầu sát sườn của mình mà hàng nội không đáp ứng nổi.
Liên quan tới lý do thứ nhất, có một ví dụ tôi nghe từ mấy năm trước thấy rất có ý nghĩa. Là ngay ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh hay Cần Thơ, nhiều người dân đang thích dùng gạo chuyển từ Thái Lan sang. Trời ! Giá vài chục năm trước, nghe ai nói thế chúng ta sẽ bảo là chuyện bịa. Làm gì lại ra nông nỗi như thế. Từ Thái sang quá diệu vợi, còn công tàu bè chuyên chở công bốc vác, sao mà rẻ được?! Mà làm gì có chuyện gạo họ ngon hơn, hợp với cái hương vị nồi cơm mà mỗi người chúng mình được thấm từ hồi còn bú mẹ! Hóa ra thời thế thay đổi, việc không ai tưởng là có, nay đều có cả.
Liên quan tới ưu thế của hàng ngoại trong việc đón đường và nắm bắt nhu cầu, sau đây là câu chuyện tôi nghe từ miệng mấy bà bán hàng lặt vặt ở phố chợ Hà Nội ( tôi cố ý tránh chữ phố cổ mà thấy gọi là phố chợ có lẽ hợp hơn).
Từ lâu người Hà Nội có thói quen là nếu chiến thắng trong các cuộc đua tranh trong thể thao là đổ ra đường ăn mừng. Lúc đó người ta thích mua cờ và các băng khẩu hiệu để trương lên, giá đắt cũng mua.
Một số nhà sản xuất VN cũng biết điều đó, nhưng vốn mỏng không làm được bao nhiêu. Khôn ngoan và biết tổ chức công việc hơn là các nhà sản xuất từ bên kia biên giới. Họ nắm ngay lấy khoảng trống đó. Mỗi lần dân thủ đô có nhu cầu là hàng từ biên giới phía bắc tràn về. Rút cục dân buôn mình chỉ thành trung gian bán lẻ cho đồng bào mình thứ hàng mà họ sản xuất.
Không chỉ trong chuyện băng cờ khẩu hiệu mà nhiều mặt hàng khác cũng có tình trạng tương tự. Theo tôi hiểu, đây là cả một xu hướng mà mỗi ngày chúng ta cảm thấy rõ rệt hơn. Mọi dòng nước ngược phản công lại cũng có nhưng không thấm thía gì cả.
Để cả vui buồn trong tay người
Trong Nỗi lòng ai tỏ của Nguyễn Công Hoan, nhân vật chính là một cô gái tân thời. Đang tự nhiên cô suốt ngày thở ngắn than dài bỏ cơm, lên giường thút thít khóc, khiến cho cả nhà phải lo lắng. Cô bảo chỉ có một người bạn gái mới hiểu được cô và giải phiền cho cô. Đến khi người bạn kia tới thì cô nhỏm ngay dậy tâm sự.
Sở dĩ cô buổn - buồn - buồn mất mấy ngày, ấy là vì một nhân vật tiểu thuyết cô đang đọc chết, thương quá !
Tôi nghĩ đến những con người thời nay. Chắc hẳn hàng ngày không thiếu cảnh cậu ấm cô chiêu ở các nhà giàu đập chân đập ta hành hạ bố mẹ vì không tìm ra mấy loại xe mới cho họ trưng diện. Rồi cả những cán bộ bình thường Hà Nội ngủ trưa trên bàn cơ quan và chia nhau suất cơm hộp chục ngàn cũng để hết tâm trí cả vào những Chelsea với lại Real Madrid ở các phương trời xa. Rồi cả những thanh niên đặt môi hôn cả ghế ngồi của các tài tử Hàn Quốc. Tóm lại, cái sự đặt vui buồn hàng ngày trong tay kẻ khác như thế này đang trở thành cách sống thời đại.
2007
Nhưng hôm nay tôi muốn nói một khía cạnh khác của sự phụ thuộc. Thoạt nhìn, nó có vẻ không mấy đáng ghét, bởi chỉ là chuyện có vẻ bề ngoài, có vẻ tạm thời – như cách mọi người hay nói -- nhưng suy cho cùng, vẫn tố cáo một sự lệ thuộc sâu sắc của ta.
Sự phụ thuộc trong sinh hoạt
Phải tới những năm chiến tranh qua đi, dân Hà Nội mới biết và rỉ tai nhau là mấy khách sạn lớn nhất ở đây thường dùng rau và thịt chuyển từ nước ngoài về, chứ không dùng đồ mua từ các chợ quanh phố như dân bản địa.
Với tâm lý của kẻ sống trong thế giới trung cổ, nghe những chuyện đó, lập tức nhiều người thấy sao mà họ cầu kỳ và có phần rởm nữa. Sống ở đây mà tách ra như trên một hòn đảo, sao họ lạ vậy ?
Ai ngờ việc sử dụng cả lương thực ngoại nhập đó giờ đây lan ra trong nhiều tầng lớp dân thường người mình, nhất là sau các đợt phát hiện rau quả có phun hóa chất, còn các loại dịch bệnh trên gia súc gia cầm thì hoành hành, cứ chấm dứt được ít lâu lại bùng phát trở lại.
Ở đây tôi không dừng lại ở khía cạnh đạo lý của vấn đề mà chỉ vấn vương ở chỗ là hình như chính chúng ta đang không nuôi mình bằng các thứ thổ sản, không xài thứ hàng mà chính đồng bào trong nước chúng ta làm ra, -- mà sẵn sàng toàn dùng hàng hóa xuất phát từ các xứ khác do người khác làm.
Tại sao tình trạng này ngày một phát triển ?
Nghĩ tận căn nguyên thấy có hai lý do. Thứ nhất hàng ngoại rẻ và tốt. Thứ hai là nhiều khi hàng ngoại đáp ứng được cái nhu cầu sát sườn của mình mà hàng nội không đáp ứng nổi.
Liên quan tới lý do thứ nhất, có một ví dụ tôi nghe từ mấy năm trước thấy rất có ý nghĩa. Là ngay ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh hay Cần Thơ, nhiều người dân đang thích dùng gạo chuyển từ Thái Lan sang. Trời ! Giá vài chục năm trước, nghe ai nói thế chúng ta sẽ bảo là chuyện bịa. Làm gì lại ra nông nỗi như thế. Từ Thái sang quá diệu vợi, còn công tàu bè chuyên chở công bốc vác, sao mà rẻ được?! Mà làm gì có chuyện gạo họ ngon hơn, hợp với cái hương vị nồi cơm mà mỗi người chúng mình được thấm từ hồi còn bú mẹ! Hóa ra thời thế thay đổi, việc không ai tưởng là có, nay đều có cả.
Liên quan tới ưu thế của hàng ngoại trong việc đón đường và nắm bắt nhu cầu, sau đây là câu chuyện tôi nghe từ miệng mấy bà bán hàng lặt vặt ở phố chợ Hà Nội ( tôi cố ý tránh chữ phố cổ mà thấy gọi là phố chợ có lẽ hợp hơn).
Từ lâu người Hà Nội có thói quen là nếu chiến thắng trong các cuộc đua tranh trong thể thao là đổ ra đường ăn mừng. Lúc đó người ta thích mua cờ và các băng khẩu hiệu để trương lên, giá đắt cũng mua.
Một số nhà sản xuất VN cũng biết điều đó, nhưng vốn mỏng không làm được bao nhiêu. Khôn ngoan và biết tổ chức công việc hơn là các nhà sản xuất từ bên kia biên giới. Họ nắm ngay lấy khoảng trống đó. Mỗi lần dân thủ đô có nhu cầu là hàng từ biên giới phía bắc tràn về. Rút cục dân buôn mình chỉ thành trung gian bán lẻ cho đồng bào mình thứ hàng mà họ sản xuất.
Không chỉ trong chuyện băng cờ khẩu hiệu mà nhiều mặt hàng khác cũng có tình trạng tương tự. Theo tôi hiểu, đây là cả một xu hướng mà mỗi ngày chúng ta cảm thấy rõ rệt hơn. Mọi dòng nước ngược phản công lại cũng có nhưng không thấm thía gì cả.
Để cả vui buồn trong tay người
Trong Nỗi lòng ai tỏ của Nguyễn Công Hoan, nhân vật chính là một cô gái tân thời. Đang tự nhiên cô suốt ngày thở ngắn than dài bỏ cơm, lên giường thút thít khóc, khiến cho cả nhà phải lo lắng. Cô bảo chỉ có một người bạn gái mới hiểu được cô và giải phiền cho cô. Đến khi người bạn kia tới thì cô nhỏm ngay dậy tâm sự.
Sở dĩ cô buổn - buồn - buồn mất mấy ngày, ấy là vì một nhân vật tiểu thuyết cô đang đọc chết, thương quá !
Tôi nghĩ đến những con người thời nay. Chắc hẳn hàng ngày không thiếu cảnh cậu ấm cô chiêu ở các nhà giàu đập chân đập ta hành hạ bố mẹ vì không tìm ra mấy loại xe mới cho họ trưng diện. Rồi cả những cán bộ bình thường Hà Nội ngủ trưa trên bàn cơ quan và chia nhau suất cơm hộp chục ngàn cũng để hết tâm trí cả vào những Chelsea với lại Real Madrid ở các phương trời xa. Rồi cả những thanh niên đặt môi hôn cả ghế ngồi của các tài tử Hàn Quốc. Tóm lại, cái sự đặt vui buồn hàng ngày trong tay kẻ khác như thế này đang trở thành cách sống thời đại.
2007
Viết thêm 30-12-2013 :
1. Trong dăm bẩy năm gần đây, tình trạng phụ thuộc nước ngoài của xứ mình đã lên đến cái mức trở thành ám ảnh trong đầu óc mọi công dân yêu nước
cũng như mỗi con người tự trọng. Thậm chí,
mọi người không muốn nghĩ đến nó nữa.Vì càng nghĩ càng đau. Chúng ta đã chìm rất sâu vào cái hố móng khủng
khiếp này, và đứng ở đáy sâu của nó ngước nhìn lên trên, chỉ thấy lại một mảng trời
đen tối.
2. Như trong bài trên tôi đã nói, sự phụ thuộc nước ngoài hiện nay là ở
hai cấp độ. Cấp thứ nhất là trên phương diện quốc gia, nền kinh tế của đất nước.
Cấp thứ hai là trên phương diện cách sống và tâm lý con người. Kinh tế quyết định tâm lý
tinh thần. Những hụt hẫng tan nát về kinh tế là nguồn gốc dẫn tới sự bi quan
cùng cực, cũng tức là mất niềm tin trên phạm vi rộng. Rồi tình thế người trong nước khảng tảng, ai cũng tìm cách thoát khỏi cuộc sống vốn có, càng khiến cho sự phụ thuộc vào kinh tế nước ngoài trở nên một lối thoát duy nhất để duy trì sự ổn định. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ chết vì chúng ta vẫn còn cần cho người khác. Chúng ta chỉ luôn luôn trong cảnh ngắc ngoải. Và
sự thật, cái gọi là phụ thuộc hôm nay còn
tệ hại hơn nhiều, so với sự phụ thuộc mà trong lịch sử, ông cha chúng ta vẫn chịu
đựng.
3. Nguyên nhân của sự phụ thuộc kinh tế
trong hòa bình là sự phụ thuộc đến mức quyết định đối với nước ngoài khởi đầu từ cuộc chiến tranh ba mươi năm. Đây là điều cần sự xác minh của các tài liệu lưu trữ mà nay đang bị giấu kín. Nhưng, như các cụ ngày xưa hay nói, cái kim giấu trong bọc mãi cũng lòi ra. Vào thời buổi của sự bùng nổ thông tin, nếu chịu khó làm việc, ta vẫn ngày một đi gần hơn tới sự thực. Một số tài liệu mới hé ra đây đó cũng đã giúp ta định hướng cho sự suy nghĩ của mình. Và trách nhiệm của giới trí thức là phải lượng định cho hết những di lụy của quá khứ đối với hiện tại và cả tương lai dân tộc vài chục năm tới.
4. Trong các bài sử thuộc phần lịch sử
hiện đại học ở phổ thông, tôi nhớ là đã
được giảng về hai dạng khác nhau của chủ
nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân cũ tức là việc một nước mang quân đến chiếm
nước khác, rồi đưa người của mình sang tổ chức bộ máy cai trị. Còn chủ nghĩa
thực dân mới thì khôn ngoan hơn và đơn giản hơn. Không cần mang quân chiếm đóng.
Thời buổi hiện nay làm thế mang tiếng chết.
Mà người ta chỉ cần lèo lái thế nào để nước thứ hai kia biến thành nơi cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho mình. Như thế mặc dù vẫn còn cái tiếng độc
lập, nhưng cái nước thứ hai kia, có khác gì đất thuộc địa?
Theo tiêu chuẩn trên mà tính, rồi bạn cũng như tôi sẽ có thể rút
ra kết luận cần thiết về thực chất mối quan hệ giữa nước ta với một số nước chung
quanh đang vồ vập săn đón ta và dường như lúc nào cũng đứng bên ta.
5. Hồi còn chiến tranh, không phải là
nhiều người dân không thèm muốn được sống
được ăn mặc được hưởng thụ như người nước ngoài. Nhưng cuộc sống thời chiến
không cho phép ta làm vậy. Nhất là trong mỗi người còn cả niềm tin, tin rằng một mai đây
khi đất nước hòa bình, với trí thông minh và sức phấn đấu của cả cộng đồng, nước ta dân ta sẽ không thua kém các dân tộc
khác các quốc gia khác. Nhưng khi đã tỉnh lại sau chiến tranh, trong tình hình
của sự giao lưu quốc tế rộng mở, trải qua những mò mẫm tìm đường, ta mới ngày càng
hiểu ra cái tầm vóc của những mất mát đã qua. Nó quá lớn, nó đã khiến chúng ta
cạn kiệt cả niềm tin và sức lực. Sự bế tắc trong gần bốn mươi năm hậu chiến khẳng định thêm
điều đó. Ta ngầm hiểu rằng nay có cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đưa xứ ta trở lại
là một xã hội bình thường, và trong so sánh, là xan bằng được khoảng cách ta với các nước chung quanh. Sống trong phụ thuộc nay không còn dừng lại ở thói quen học đòi non dại của lớp trẻ, mà đã biến thành vấn đề nhận thức quan niệm cùng là niềm tin có tính định mệnh của những người từng trải ở cả
bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc.