VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Những tha hóa trong nghề thầy giáo thời nay

CÓ PHẢI LÀ THẤT ĐỨC?

     Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều người đã phải lao vào hành động để đáp lại sự đòi hỏi của hoàn cảnh cũng như để tạo nên những bước đi thích ứng với các đồng loại. 



    Đến khi có dịp nhìn lại những lần "nhắm mắt đưa chân" kiểu ấy, người ta không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này việc nọ.
     Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều?
     Thế là các kịch bản cũ lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch.
     Và tôi ngờ rằng dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm.
      Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài kịch.
      Dưới đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen của tôi đã và đang trải qua.Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi kịch không phải không nhìn thấy tình thế của mình.
    Có điều, nói như A.Camus, khi đã xuống thuyền rồi người ta không thể quay trở lại được nữa.
      Ấy là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một số giáo sư tham gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã đổi là tiến sĩ).

     Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó, bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu nên sau mười mấy năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà nhiều khi các học giả  tương lai đó "chẳng hiểu nếp tẻ gì cả" (trong ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích lối nói thậm xưng một chút như vậy).
     Nhưng có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, phần lớn họ lại rất sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi giá.
     Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy.
     Song làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường.
      "Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến văn chương thì mới dám tiếp tục" - anh Ng. có lần tâm sự.
     Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu không muốn nói cứ đuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.
     Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ còn mải miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh yên thì phải hơn.
     Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông Ki-sốt trong người?
     Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:
- Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?
- Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.
- ...
- Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung nó chạy theo hướng  của nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.
    Đến chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề.
    Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ bẫm lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy.
    Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người như vậy.
    Chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng.
    Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc.
     Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào.
    Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải.
    Giờ đây có ai đó trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới những bất cập trong công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa. Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách soi mói.

    Không phải chỉ riêng anh Ng. của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương tự. Bởi vậy, tôi muốn được phép bàn rộng ra một chút.
     Các cụ xưa có hai tiếng "thất đức" để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời sau.
     Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh làm có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối.
     Các anh là những giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ kiến thức cho người khác. Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề làm thuốc bao giờ cũng được trọng vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức được?
     Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng. - "mang nhãn hiệu của anh Ng." - bên cạnh những cán bộ khoa học tạm được, cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm. Mà càng những người kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Sau khi có bằng cấp, một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau. Nói cách khác, lớp người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân.
     Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự của anh. Tôi chưa hẳn yên tâm khi dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra chữ khác đích đáng hơn.

Đã in trong  Nhân nào quả ấy, 2004
     

    ĐƯƠNG NHÂN BẤT NHƯỢNG Ư SƯ !
                                                             
      Luận  ngữ  là cuốn sách số một, sách cái của đạo Nho. Trong đoạn 35 của chương Vệ Linh Công, học trò từng ghi lại một lời dạy của Khổng Tử: Đương nhân bất nhượng ư sư ( làm điều nhân thì dẫu thầy mình, mình cũng không nhường.)
      Đạo Nho thường được miêu tả là hay đưa ra những lễ nghi nghiêm khắc, những ràng buộc tuyệt đối. Sư ( thầy học )  là một trong ba ngôi bề trên ( quân sư phụ ) mà người ta phải phục tùng vô điều kiện.
      Vậy mà ở đây, Khổng Tử lại giả định cho người ta một khả năng “nổi loạn” với nghĩa có những việc không nhường thầy. Tại sao vậy ?
      Để trả lời câu hỏi này, trước tiên cần nói qua về khái niệm nhân. Đây không phải chữ nhân là người. Mà chữ nhân này trong ký tự gồm chữ nhân đứng và chữ nhị, để chỉ quan hệ hai người, và mở rộng là quan hệ người với người nói chung.
      Thông thường ở ta, các bậc trí giả chỉ xem nhân như nhân từ nhân ái, tức yêu người thương người. Còn theo cách giải thích của các nhà nghiên cứu Nho giáo Trung quốc hiện nay, thì nhân trong câu trên nghĩa là “cái đạo lý khiến cho con người trở thành người”.
      ( Nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê khi dịch Luận ngữ đã chú thích “nhân là điều ai cũng nên làm, hết sức mà làm“, tức những việc lớn ở đời, cũng đã khá gần với cách hiểu hiện đại nói trên).
     Nhưng hãy trở lại với cái ý tổng quát trong câu Đương nhân bất nhượng ư sư. Ở đây có ẩn một quan niệm về giáo dục cũng như về lễ nghĩa. Tự nó giáo dục không phải là mục đích. Sở dĩ việc học quan trọng vì nhờ nó người ta có thể hoàn thiện mình để mang mình ra giúp đời.
     Và quan hệ thầy trò không phải là những quy định xã hội ép chặt từng cá nhân vào một chỗ cố định, càng không phải là những giới hạn ràng buộc người ta trong hành động.
      Quay trở lại với tình hình giáo dục Việt Nam.
       Được tiếng là theo Nho giáo, nhưng một quan niệm về chữ nhân như trên với ta rất ít được nhắc tới.
       Khi bàn về giáo dục và ông thầy, câu đầu tiên mà người ta nhắc nhau là Nhất tự vi sư bán tự vi sư.     
      Đằng sau lối nói số học “nửa chữ cũng là thầy “, người nói ngầm đe người nghe rằng ở đây có những giới hạn, và giới hạn này là tuyệt đối.
      Tôi đã là thầy anh một lần thì mãi mãi là thầy anh, không bao giờ anh vượt được tôi cả.
      Rộng ra mà nói, lớp hậu sinh phải biết yên phận trong những gì quá khứ đã vất vả chiếm lĩnh. Và sẽ vĩnh viễn là cái trật tự đã hình thành, người đi sau cứ phải theo đó mà đi, đừng tính chuyện làm khác.
       Từ góc độ của một người từng đi học và khi ra đời sống với những người làm nghề chữ nghĩa, tôi đọc được ở đây cái lời cảnh cáo ngầm như vậy.
      Có thể Nhất tự vi sư bán tự vi sư  cần thiết cho những học trò lười biếng ngỗ ngược. Thế nhưng đối với lớp hậu sinh có chí khí có tài năng và nghị lực thì là cả một bước ngăn trở.
      Khổ một nỗi là cái tinh thần nệ cổ này, từ ngành giáo dục đang trở thành một kiểu tư duy của người mình, một nguyên lý chi phối cả xã hội.
     Nhân danh lễ nghĩa, người ta hạn chế khao khát sáng tạo của lớp trẻ.
     Đáng lẽ phải lo đào tạo cho được một lớp trẻ ngày một khá hơn—con hơn cha là nhà có phúc -- thì người ta lấy lớp già ra làm cái trần, làm giới hạn, làm chân trời của họ.
     Đáng lẽ phải lo trung thành với tương lai thì người ta chỉ biết kêu gọi trung thành thụ động với quá khứ.
     Tại sao lại thịnh hành một lối nghĩ như vậy? Chỉ có thể hiểu được điều này nếu nhìn thẳng vào thực trạng non kém của nghề thầy giáo suốt thời trung đại và còn kéo đến tận ngày nay.
     Phan Kế Bính trong Việt nam phong tục (1915) đã nói tới cái tình trạng “mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ để hồ khẩu“( hồở đây  vốn có nghĩ là keo dính; từ cổ hồ khẩu có nghĩa kiếm sống).
      Đám thầy này rất hay vòi vĩnh “nào khi nhà thầy có giỗ nào khi thầy lấy vợ” việc gì cũng lôi đồng môn ( tức đám học trò và kéo theo là phụ huynh gia đình họ) ra bắt gánh vác.
      Đã có tình trạng ăn bám (được Phan Kế Bính gọi là cái mọt của thiên hạ),  thì tự nhiên có sự huyênh hoang lên mặt. Người ta thích nhắc đi nhắc lại rằng mình là khuôn vàng thước ngọc. Chữ lễ theo nghĩa tốt đẹp của đạo Nho bị tầm thường hóa, biến thành sợi dây ràng buộc và che giấu cho sự trì trệ.    
      Tình trạng này đến nay vẫn đang được tiếp tục và có lúc trở nên kỳ quặc quá quắt nữa.
      Một nền giáo dục tốt đẹp thường có những ông thầy lớn, niềm tự hào chủ yếu của họ là đào tạo được những học trò tài giỏi hơn mình. Chính là ở chỗ vượt thầy mà người đi sau thể hiện sự tôn trọng cao nhất đối với thầy, và tiến bộ xã hội nhờ đó mà được đẩy tới.
      Nhưng ở ta, khi vào dịp thân tình, tôi hỏi một vài giáo sư đầu ngành khoa học xã hội rằng ông có đào tạo được người học trò nào hơn mình không thì các ông đều lúng túng. Thông thường các ông cho rằng đòi hỏi như thế là quá cao, trước mắt phải chấp nhận hoàn cảnh Việt Nam đã.
      Câu chuyện khi tới chỗ ấy tôi đành lảng và lạy trời tha lỗi, mạo muội đoán thêm rằng trong thâm tâm, hình như vấn đề này không có trong đầu óc các vị nữa.
     Cũng như trong đầu óc các vị không hề có chuyện đương nhân bất nhượng ư sư!
                                                                                      
Đã in TBKTSG 11-2009                                                                                 

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn