Đó là hai tác phẩm của hai nhà văn thuộc hai bên chiến tuyến. Cùng viết về xác người giữa chiến trường, một bên ném cái xác như ném bao tải, một bên khóc thầm trước chiếc áo tím còn bay trong gió.
Tác phẩm
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" (NBCT) của Nhà văn Bảo Ninh được vinh danh, và
vậy là có lời ra tiếng vào. Tôi nghĩ vinh danh ok mà.
Ở đây, tôi
liên tưởng tới một nhà văn quân đội khác, thuộc bên kia chiến tuyến: Phan Nhật
Nam. So sánh cách họ viết cũng ngộ ra vài điều.
Hồi đó (tức
~30 năm trước), khi sách mới xuất bản, NBCT được giới thiệu như là một “sản
phẩm” của trào lưu đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả dám nói đến những mất mát
và đau thương trong thời chiến, vốn là một đề tài cấm kị trước đó. Giới phê
bình văn học, trong và ngoài nước, nhận xét rằng NBCT thể hiện một suy nghĩ
nghệ thuật mới mẻ. Và, đúng như vậy.
■ Văn chương
'graphic'
Thấy giới
thiệu nồng nhiệt như vậy, tôi cũng cố gắng tìm mua để đọc. Tôi đọc NBCT một
lần. Nhưng không dám đọc lại lần nữa vì hình ảnh trong đó quá … ‘ấn tượng’.
Dĩ nhiên, nhà
văn là người có tài viết văn hay, và quả thật trong sách có nhiều câu văn đẹp.
Nhưng trong
tiểu thuyết cũng có những đoạn văn rất ... khó đọc. Thử đọc một đoạn trong NBCT
mô tả cái nhìn của nhân vật chánh trong tiểu thuyết tên Kiên:
“Kiên hờ hững
ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên,
chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn
ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ, mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng
máu…"
Và đoạn mô tả
đối phương:
"[...]
Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải quan đi ra
khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch lên, gã
vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng choảng
chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên nhếch
mép.
Sượng sùng gã
sục ‘đồ cổ’ nhỏm dậy tức tối vò hai nắm đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười
nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt, hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật
vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống lên:
‘Ð mẹ mầy,
con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư
mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn
phắt mày đi!’
Chửi đoạn,
thằng cha ‘Chí Phèo’ túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má
dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và
nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người
ta lên.
Xoay lộn mấy
vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính
dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa
vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu
xuống. Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh khuỳnh ra dáng người hùng…”
Thật ra, văn
chương bạo lực và 'graphic' như vầy khá phổ biến ở các tác giả khác nữa. Độc
giả sẽ phải gặp những câu đầy ám ảnh như “mụ ngụy cái ngực vỡ toác”, “moi tim
gan nướng ăn tại chỗ”, “xẻo vú bộ đội nữ”, v.v. Thử đọc một đoạn sau đây của
một nhà văn nổi tiếng:
"… quân
ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú
ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình
găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết
người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe
'thụt' một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt
hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo
mỡ…"
Đó là cách mà
một số nhà văn mô tả những kẻ thuộc bên kia chiến tuyến.
Đọc lên mà
thấy ghê rợn. Người phương Tây gọi là cách viết 'graphic'. Họ có thể viết ra
những câu chữ đó làm tôi kinh ngạc.
■ Làm tôi
liên tưởng tới một nhà văn quân đội bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam
là một nhà văn nổi tiếng thời trước 1975. Ông người gốc Quảng Trị. Thân phụ ông
là người bên kia chiến tuyến, và từng là đảng viên Đảng CSVN. Sau 1975, ông bị
bắt đi tù cải tạo suốt 14 năm trời, trước khi sang Mĩ định cư.
Nói đến Phan
Nhật Nam, những người thuộc thế hệ tôi đều nghĩ ngay đến cuốn "Mùa Hè Đỏ
Lửa". Đó là một loại tuỳ bút được viết ra trong trận chiến ở Quảng Trị vào
năm 1973, có liên quan một chút đến phim "Mưa Đỏ" đình đám gần đây.
Nhưng cá nhân
tôi thích cuốn "Dấu Binh Lửa" hơn. Trong Dấu Binh Lửa (tác phẩm đầu
tay, 1969), tác giả khắc họa rõ hơn những mặt người trong cuộc chiến tàn khốc.
Trong tác phẩm của Phan Nhật Nam độc giả cũng sẽ thấy khói súng, thương tích,
hoang mang, thậm chí cái chết, nhưng được mô tả bằng một văn phong gần như thơ,
chớ không graphic như trên.
Thử đọc tâm
trạng và suy nghĩ của người lính VNCH như Phan Nhật Nam khi bắt được một nữ bộ
đội:
“… Chị không
hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị
tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao
nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu
lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng
quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu
cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo
bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và
chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ
hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân
cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên
khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.” (Dấu Binh Lửa).
Phan Nhật Nam
tỏ ra đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái
trẻ vô tội:
“Khi tôi bước
ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc
hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng
trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan
nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi
thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang
vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm” (Dấu Binh Lửa).
Viết về người
bên kia chiến tuyến:
“Nòng súng
thượng liên Trung cộng, tiểu liên Tiệp khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây
súng ngoại quốc bắt đầu… nhắm vào đám lính mang giày Nhật, nón sắt Mỹ, M16.
Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa.”
và:
"Gã nhà
quê nầy là kẻ thù của mình? ... Tên Việt cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy
dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ."
■ So sánh 1:
Thái độ với bạo lực
Bảo Ninh: Bạo
lực được miêu tả rất graphic, chi tiết sinh học, gần như phô bày sự tàn phá của
chiến tranh lên cơ thể con người một cách lạnh lùng, đôi khi có phần khoái cảm
trả thù ngầm. Cái chết của người bên kia chiến tuyến thường bị vật thể hóa (cái
xác đàn bà trắng hếu, bị đá, bị liệng như đồ vật), hoặc bị mô tả với sự khinh
miệt, thóa mạ (con đĩ, đồ cổ, mụ ngụy).
Phan Nhật
Nam: Bạo lực vẫn hiện diện (rất nhiều), nhưng hầu như luôn được lọc qua cảm
thức đau đớn nhân bản. Ông không né tránh máu me, xác người, nhưng cái nhìn của
ông là cái nhìn thương xót đối với cả hai phía. Người chết bên kia (cô gái áo
tím, "tên Việt Cộng 15 tuổi") vẫn là con người, vẫn gợi lên lòng trắc
ẩn, sự bất lực và tuyệt vọng của chính người lính VNCH. Ông không bao giờ để nhân
vật của mình có khoái cảm trả thù khi giết hay hành hạ xác đối phương.
■ So sánh 2:
Cách nhìn người bên kia chiến tuyến
Bảo Ninh:
Người lính VNCH và 'ngụy' có khi bị phi nhân hóa. Họ là “đồ cổ”, “Chí Phèo”,
“súc vật”, “thằng chó má dã man”. Ngay cả người chết cũng không còn được nhìn
như con người nữa, chỉ là vật cản, là đối tượng để trút giận. Có rất ít (gần
như không có) khoảnh khắc nào nhân vật chính cảm thấy thương xót thực sự cho kẻ
thù.
Phan Nhật
Nam: Luôn có sự đồng cảm đau đớn. Ông gọi họ là “chị”, “cô gái”, “tên nhà quê”,
“đứa trẻ 15 tuổi”. Ngay cả khi có cái chết, ông vẫn thấy đó là bi kịch của dân
tộc: “những ngón tay Việt Nam nhắm vào trái tim Việt Nam”.
■ So sánh 3:
Ngôn ngữ và văn phong
Bảo Ninh: Văn
phong cứng, gắt, đôi khi thô tục cố ý, nhiều câu ngắn như nhát dao, tạo cảm
giác nghẹt thở, điên loạn. Ngôn ngữ đôi chỗ gần với tiếng lính ngoài đời thật
(chửi thề, chửi tục), nhưng được đẩy lên thành nghệ thuật của sự phẫn nộ và trả
thù. Nhiều đoạn đọc xong thấy ghê rợn và nặng nề.
Phan Nhật
Nam: Văn phong mềm mà sắc, gần như thơ trữ tình giữa khói lửa. Dù viết về chiến
tranh ác liệt (Quảng Trị 1972), câu văn vẫn rất đẹp, giàu hình ảnh, giàu nhạc
điệu, đầy chất tự sự nội tâm. Ông ít dùng từ tục (dù lính VNCH ngoài đời chửi
tục chẳng kém ai), thay vào đó là những câu dài, day dứt, ám ảnh theo kiểu “cái
đẹp bị hủy hoại giữa chiến tranh”.
■ So sánh 4:
Tính phản chiến?
Nỗi Buồn
Chiến Tranh thường được ca ngợi là tác phẩm phản chiến tiên phong của văn học
đổi mới. Nhưng nếu đọc kĩ, độc giả sẽ thấy nó không phản chiến một cách toàn
diện như nhiều người bảo thủ nghĩ đâu. Nó chỉ phản chiến ở chỗ nói được nỗi đau
của người lính bên thắng cuộc (điều trước đó bị cấm kị). Còn đối với bên kia,
nó vẫn đầy định kiến sắt máu và khoái cảm trả thù.
Phan Nhật Nam
mới thực sự là phản chiến theo nghĩa nhân bản: ông đau đớn vì cả hai bên đều là
người Việt giết nhau, đều là nạn nhân của lịch sử. Ông không cần phải “được
phép” nói như các nhà văn khác; ông nói từ rất sớm, ngay giữa chiến tranh, và
nói bằng cả trái tim tan nát của một người lính trẻ.
Tóm lại, tôi
đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh một lần và không dám đọc lại, còn đọc Dấu Binh Lửa và
các tạp bút của Phan Nhật Nam nhiều lần, mỗi lần vẫn thấy đau thắt ở ngực.
Một bên là
tiếng gào của người thắng muốn cho cả thế giới biết mình cũng đau, dù đã thắng;
một bên là tiếng khóc thầm của người thua, nhưng vẫn khóc thương cả cho người
thắng.
Đó là sự khác
biệt lớn nhứt giữa hai văn phong và cũng là bi kịch của văn học chiến tranh
Việt Nam: cả hai đều là bậc tài năng, nhưng một người viết bằng máu trả thù, còn
một người viết bằng nước mắt của lòng nhân. Có thể tác giả không phải là người
như vậy, nhưng văn chương của họ buộc người đọc hiểu theo nghĩa đó.
Bảo Ninh
quăng xác kẻ thù trên trang giấy; Phan Nhật Nam ôm lấy cả kẻ thù mà khóc. Năm
1990, cả thế giới ngợi ca Bảo Ninh dám viết về nỗi đau chiến tranh và điều này
đúng. Nhưng 20 năm trước đó, một sĩ quan trẻ tên Phan Nhật Nam đã viết những
dòng đau hơn gấp bội -- và chẳng ai được phép đọc/nghe.