Nguồn: https://baotiengdan.com/2025/08/27/hoa-kieng-va-van-nuoc/
"Hoa kiểng và vận nước" của Nguyễn Hoàng Văn, là một bài viết dài có nhiều ý tưởng sâu sắc .Trong phạm vi của một blog cá nhân, chúng tôi xin phép lược bỏ nhiều đoạn và có đăt thêm các đầu đề nhỏ; rất mong tác giả thông cảm
--
XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG
Tôi không nói đến cơn sốt “lan đột biến” như một thủ đoạn thương mại từng gây ồn ào một dạo, cũng không nhắc đến bonsai như một thú tiêu khiển tao nhã vẫn đang phổ biến đó đây [1].
Nếu bonsai có thể giúp con người tập trung trong tĩnh lặng và sự ngưng đọng của thời gian để hòa hợp với một thiên nhiên cô đọng nhằm giảm nhẹ những áp lực trần thế cho một đời sống thăng bằng và lành mạnh thì đại bonsai, thú tiêu khiển của những phú hào thời nay trong danh xưng “cây thế”, thực sự khác [2].
KHI SẢN PHẨM TỰ NHIÊN BỊ PHÁ HỎNG
Cái trò chơi tốn kém và nặng nề cơ giới này, qua quan niệm lấy sự phì đại làm đẹp, đã lệch lạc hóa mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Sản phẩm tự nhiên của đất trời, trong kích thước thật giữa đất trời, lại bị tách khỏi đất trời.
Dưới những cái chậu khổng lồ như cái nhà giam mà trên thì, bất cứ lúc nào, cũng có thể lơ lửng cỗ máy chém để cưỡng ép cây không được tự nhiên là cây, mà phải là những linh vật trong những khuôn sáo nào đó, cho những thông điệp cầu cạnh hay ước muốn nào đó, rất huyền nhiệm nhưng cũng rất thực dụng, phước thọ hay tài lộc v.v…
Bị buộc phải là lân, long, hổ, phụng … trong những “thế” này hay “thế” kia thì chúng, dẫu cầu kỳ đến mấy về kỹ thuật, cũng hoàn toàn ngây ngô về mặt thẩm mỹ.
Xem ra, trò linh vật hóa thiên nhiên này là một hình thức đồng bóng hóa thiên nhiên và, hệ quả, những thủ phạm cũng lâm vào tình trạng vong thân như những kẻ mê sảng, lên đồng, có thể vứt ra đến mấy chục gia tài đối với người bình thường, cả chục hay hàng trăm tỷ đồng, thậm chí đến 20 triệu Mỹ kim.
Một cội cây thôi đã bằng mấy trường tiểu học và, cộng thêm hai nữa, là ngang ngửa với một bệnh viện [3].
Giữa cái thời thiếu thốn trầm trọng trường học và bệnh viện thì lệch lạc trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên này còn hàm ý một sự lệch lạc và mong manh của cấu trúc xã hội.
-
Vì quá yêu thiên nhiên nên họ mới chấp nhận tốn kém như thế hay chăng?
Nếu bảo đó là tình yêu thì, bất quá, cũng chỉ là thứ tình yêu mà những tên thực dân dành cho thuộc địa mà mình đã gắn bó đến già đời.
Thú tiêu khiển nặng tính thực dân với đất trời này, phải chăng, là một biến thái của giới giàu xổi hãnh tiến trong giai đoạn phát triển hoang dã mang tên “chủ nghĩa tư bản thân hữu”?
SỰ HÃNH TIẾN TRONG LỊCH SỬ
Thời nào cũng có bọn hãnh tiến của thời đó cùng những mối quan hệ “thân hữu” liên quan và, theo Phạm Đình Hổ (1768-1839), trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Chuyện cũ trong Phủ Chúa Trịnh”, đó đã từng là mốt dưới thời Trịnh Sâm, giai đoạn cuối của thời Lê Trung Hưng, thời rệu rã của nền quân chủ:
“Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung bên Tây hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên…
Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyến bày vẽ ra hình núi non bộ trông giống như bến bể đầu non.
Mỗi đêm khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ”.
Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính tới lấy phăng đi rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì lớn quá, thậm chí phá nhà hủy tường để đem ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập núi non bộ hoặc phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường cũng trồng hai cây lựu trăng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy”.
-
Tưởng tượng một “cây đa to, cành lá rườm rà”, rễ dài đến mấy chục thước mộc mà, để di chuyển, phải điều động cả một “cơ binh” – tức 200 binh lính, cỡ nửa tiểu đoàn – với hiệu lệnh từ tiếng phèng la, như một thứ quân nhạc [4].
Bề trên là vậy thì bề dưới, đám phú hào với những “hòn đá hoặc cây cối lớn quá” mà, để mang đi, phải “phá nhà hủy tường”:
Bọn này, như thế, có khác gì những phú hào thời nay với những “cây thế” nặng đến 50 tấn? [5]
Lược bỏ một đoạn
NHỮNG CÁCH XỬ LÝ KHÁC
Trịnh Sâm, do đó, rất khác với Lê Thái Tổ, vị vua mà tháng 3 năm 1429, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ra lệnh quân binh và “phủ đệ của công hầu trăm quan” đã được chia đất phải “trồng cây, trồng hoa và các loại rau đậu”, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu.
Lê Thái Tổ đã từng nhịn đói “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần” để mưu đồ việc lớn nên rất là thực tế. Một nền kinh tế bị đình trệ sau 10 năm khói lửa thì cần đến rau đậu như một thứ thực phẩm ngắn ngày. Và một Thăng Long điêu tàn sau 10 năm bị ngoại xâm tàn phá phải tươi lên với hoa để lòng người theo đó mà thắm lên, với một triều đại mới, cho một việc lớn mới.
-
Nếu lệnh trồng hoa của Lê Thái Tổ mang tinh thần thực dụng thì lạc thú điền viên của Nguyễn Trãi, kể từ khi lùi về ẩn dật tại Côn Sơn khoảng 9 năm sau đó, lại biểu lộ một phong vị nghệ thuật.
Qua những bài thơ để lại, chúng ta dễ dàng nhận ra điều này qua những cảnh sắc mang tính tượng trưng, sơn thủy hay lâm tuyền, rồi mai, cúc, trúc, đào, mai, sen v.v…
Trong phong vị nghệ thuật đó của Nguyễn Trãi, chúng ta còn nhận ra nỗ lực nhân cách hóa thiên nhiên qua phẩm cách của từng loại cây, từ tùng không rụng lá trong tiết lạnh đến trúc “tiết trực tâm hư”, rồi cúc “ẩn dật” và sen thanh cao như người quân tử “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” v.v…
...
Lược bỏ một đoạn
-NGUYÊN TẮC CHƠI HOA , THEO PHẠM ĐÌNH HỔ
Trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Hoa thảo" Phạm Đình Hổ viết :
“Ta xét ra những cách chơi cỏ, cây, hoa, đá từ đời nhà Hán đã có, đến các đời sau, mỗi ngày mỗi đổi cách chơi cho mới lạ thêm…. đến nay vẫn còn truyền miệng ở dân gian.
Thế mới biết người xưa cũng thường cho tinh thần đi chơi ngoài cảnh vật, trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân, vậy nên mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác hoài bão cao cả, mở vườn trồng cây, chồng đá làm núi, khiến cho cái vẻ đẹp của cỏ cây, cái thế hùng vĩ của núi non trình bày ra trước sân, trước cửa sổ đó mà thôi, chứ có phải hết sức mà chăm chút cảnh vật đâu.
Về sau này, thế thái đã suy, nhân tâm lại bạc, cái cây thẳng đem uốn cho cong đi, hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra, bàn tay nhân tạo càng khéo thì cái thú thiên nhiên lại càng kém!
-
Ta chỉ quái lạ cho người đời bây giờ, chơi hoa, chơi đá, mà chỉ lấy cái ý kiến riêng, muốn làm khéo hơn người trước mà lại thành ra vụng, uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất, biết bao nhiêu cách không thể nói hết được.
Ôi! Nếu trời sinh ra cây ra đá mà làm hệt như hình cầm thú thì tạo vật cũng đến phải hết nghề, còn có gì mà đáng thưởng ngoạn nữa!
Phỏng như để những hình long, hổ ngoằn ngoèo, sư, lân hống hách và những hình xà thần, ngưu quỷ đầy cả nhà thì trông thấy, ai chẳng bịt mắt lắc đầu mà chạy.
Thế nhưng người đời lại lấy cách chơi ấy làm cao, ta thực không hiểu ra làm sao cả”.
-
ĐOẠN KẾT
Viết về thời của mình mà Phạm Đình Hổ, cơ hồ, như là viết cho hai thế kỷ sau, thời của chúng ta.
Cũng là mối quan hệ lệch lạc giữa con người với thiên nhiên.
Cũng là “cái cây thẳng đem uốn cho cong đi hay “hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra”.
Cũng là “uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất” khiến “tạo vật cũng đến phải hết nghề”.
...
Lịch sử, thường được hiểu như là những nỗ lực tái tạo quá khứ.
Và lịch sử, trong cách nhìn của sử gia Edward Hallett Carr, là sự tương tác và đối thoại bất tận giữa hiện tại với quá khứ [9].
Nhưng bây giờ, qua những điều như thế, quá khứ đang tái hiện trong hiện tại và quá khứ đang tương tác hay đàm thoại với hiện tại, hoàn toàn một chiều.
Lược bỏ một đoạn
Chú thích:
1. Theo những người thuộc giới kinh doanh tại VN thì đầu tiên “lan đột biến” với giá cao ngất là một chiêu thức rửa tiền, sau đó là sự bịp bợm của đám tinh ranh muốn khai thác lòng tham của giới trung gian, giống như cơn sốt “chim cút” mà giới Hoa kiều tại Chợ Lớn thổi bùng vào thập niên 1970 tại miền Nam.
2. Theo một phóng sự truyền hình tôi đã xem từ lâu trên đài SBS của Úc về những người sống thọ thì, ngoài những yếu tố như môi trường, dinh dưỡng,văn hóa cộng đồng v.v… người dân đảo Okinawa (Nhật) còn sống lâu nhờ bonsai: giúp họ thư giãn, xóa tan những áp lực, và việc tỉa bonsai nhẹ nhàng nhưng lập đi lập lại sẽ giúp họ giảm nguy cơ bị bệnh khớp với hai bàn tay.
Trong khi đó kết quả tra cứu trên google, cho thấy, vào thời điểm 2023, kinh phí xây dựng một trường tiểu học là 100 tỷ đồng, còn một bệnh viện là từ 60 triệu đến 187.5 triệu Mỹ kim.
https://thietkebenhvien.vn/chi-phi-xay-dung-benh-vien/
4. Lúc này, đời vua Lê Hiển Tông (1740 –1786) – thì một cơ có 200 quân.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên, Quyển 40 ghi lại chuyện trong năm Mậu Thìn, (1748): “Trước đây, phân phối vệ binh lệ thuộc vào các vệ, người đứng cai quản phần nhiều đem binh lính sung làm việc riêng, hoặc tha cho về mà bắt nộp tiền cỏ ngựa; về phần binh lính thì thường mướn người nghèo yếu đi thay. Kỷ luật lỏng lẻo, nói về thực dụng không có ích gì. Triều đình bèn hạ lệnh cho vệ binh đều lệ thuộc vào trấn, chia đặt từng cơ, từng đội, cứ 200 người làm một cơ, cho phép một nửa ở quân ngũ, một nửa về làm ruộng, thay đổi lẫn nhau.”
6. .
7
8.
9. Edward Hallett “Ted” Carr, sử gia Anh (1892-1982). Ý tưởng này trình bày trong cuốn What is History (University of Cambridge & Penguin Books. 1961)