Trích bài Nỗi buồn chiến tranh và “một nửa của sự thật …” của Hà Thị Lệ Hà
NGUỒN
https://donggianghoanghoathamdn.wordpress.com/2015/12/14/noi-buon-chien-tranh-bao-ninh-va-mot-nua-cua-su-that/
Phần lớn người đọc Việt Nam biết đến
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh khá muộn màng so với thời điểm ra
đời của nó , sau nhiều cơn cớ sóng gió phê bình và kiểm duyệt . Xuất bản
lần đầu tiên năm 1987 với nhan đề “Thân phận của tình yêu” . Đạt giải
của Hội Nhà văn Việt Nam sau khi chính thức được phép xuất bản năm 1991 .
Được tôn vinh là “cuốn tiểu thuyết xúc động nhất về chiến tranh Việt
Nam”, “cuốn sách chạm vào mẫu số chung của nhân loại”, “thành tựu lớn
nhất của văn học đổi mới”…
Lần đầu cầm trên tay “Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh năm 2002, tôi đã đọc liền một mạch . Hiếm khi được
đọc một cuốn như thế . Xót thương và cảm động ! Nhiều câu văn , nhiều
đoạn văn của “Nỗi buồn chiến tranh” khiến tôi thực tin người viết , cũng
là một người lính , thực trải những đau đớn , dằn xóc nghiệt ngã tự
trái tim mình .
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh lập
tức làm tôi nhớ đến “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” ( All quiet on the
Western Front) của nhà văn Đức Erich Maria Remarque. Đầu thập niên 1970
, ở miền Nam Việt Nam , còn là những học sinh cấp 2, chúng tôi đã say
mê đọc Remarque : “Một thời để yêu , một thời để chết” , “Chiến hữu”… ,
và đặc biệt là “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”. Những ngày ấy , chiến
tranh hiện diện khắp mọi ngóc ngách : trên từng bản tin chiến sự hằng
ngày của báo chí và truyền hình , trong từng âm thanh tiếng đại bác đêm
đêm ầm ĩ dội về thành phố …Bạn bè cùng trường , cùng lớp tôi , phần lớn
là những đứa trẻ từ các làng quê Điện Bàn , Đại Lộc , Duy Xuyên … theo
gia đình tản cư về Đà Nẵng . Có đứa , anh làm xã trưởng , nửa đêm bị du
kích xông vào nhà chặt đầu. Có đứa , ba làm quận trưởng , cuối tuần về
lại nhà chiếc xe jeep bị đặt mìn nổ tung . Ba tôi cũng là một người lính
, ông điều hành một đại đội xe Hồng thập tự chuyên về tải thương , lúc
còn tạm trú ở trại lính tôi đã nhìn thấy rất nhiều máu đặc quánh rồi khô
lại trên vô số những tấm băng ca màu xanh xám . Tuổi mười hai , mười ba
, nghe những câu chuyện ấy , nhìn những cảnh ấy… chỉ biết buồn ngơ ngẩn
mà không thể hiểu vì sao con người lại tàn ác với nhau, lại nhẫn tâm
làm đổ máu nhau như thế. Sự thể ấy cũng khiến nhiều đứa trong số chúng
tôi mau chóng rời bỏ tuổi trẻ và trở nên già nua rất nhanh, trong có vài
năm ngắn ngủi mà trải nghiệm gần hết cả một cuộc đời hệt như nhân vật
Paul Bäumer trong “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria
Remarque.
“ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của
Erich Maria Remarque là một tiểu thuyết về đề tài chiến tranh . Tác phẩm
lấy bối cảnh cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất , khi cuộc Đại chiến đã
đi được nửa đường và điểm nóng mặt trận đã chuyển hướng từ phía Đông về
phía Tây (1916_1918) . Nhân vật chính là Paul Bäumer, một người lính
Đức 19 tuổi . Mấy năm trước , anh cùng những người bạn học cùng lớp của
mình nghe lời cổ vũ , tuyên truyền của giáo sư Kantorek: “ chúng ta có
hạnh phúc được sống trong một thời đại lớn ; vì vậy chúng ta phải hòa
mình vào thời đại ấy” , bảy người trong lớp họ hăng hái vào quân đội để
tham gia chiến tranh. Sau một khóa huấn luyện kéo dài mười tuần , họ
được đưa ra mặt trận Miền Tây , nơi đang diễn ra những cuộc giao tranh
ác liệt giữa nước Đức và liên quân Anh Pháp. Họ từng được giáo sư
Kantorek thuyết phục rằng “tuổi trẻ là gang thép”, những chiến binh Đức
là bất bại , nhưng ra đến mặt trận , trước đạn bom, họ mới thấy sinh
mạng con người bé nhỏ , yếu ớt và thảm hại biết chừng nào .
Mở đầu “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”
là hình ảnh mấy chục người lính đại đội 2 , đại đội của Paul Bäumer đang
xếp hàng lĩnh thức ăn trưa . Ngày hôm qua , sau một trận đánh ác liệt
với quân Anh , đạn pháo tới tấp giã trên đầu , đại đội 2 gồm 150 quân
của họ chỉ còn lại 80 . Mọi sự xảy ra nhanh đến mức không ai hiểu nổi
chuyện gì đang xảy ra , không ai hiểu vì sao mình còn sống , cũng không
ai kịp nhỏ một giọt nước mắt khóc thương cho những đồng đội của mình.
Trái lại , dường như tất cả bọn họ đều còn thấy cảm thấy phấn chấn , hả
hê vì bữa trưa ngày hôm ấy , khẩu phần dành cho 150 người gồm đậu hầm ,
xúc xích , bánh mì , thuốc lá …sẽ là của 80 người , một “khẩu phần kép”.
Thật là no nê phủ phê . Ăn uống xong rồi , họ xách những chiếc thùng gỗ
ra cánh đồng cỏ sau lán trú quân , ba cái đâu vào nhau , chễm chệ ngồi
lên rồi chơi bài , hút thuốc , đọc thư… vừa đắm mình trong bầu không khí
dễ chịu đẫm hương hoa đồng nội, vừa khoan khoái trút những thứ mới được
tiêu hóa trong dạ dày , ít ra cũng hai tiếng đồng hồ sau mới chịu đứng
dậy .
Cũng trong trận ấy , một người bạn học
_đồng đội của Paul Bäumer là Kemmerich bị thương . Một chân của anh đã
bị cưa và có lẽ anh cũng chẳng còn có thể sống được bao lâu . Nhưng
Kemmerich mới mười chín tuổi , anh không thể hiểu cái sự thể bi đát ấy .
Và anh cũng chẳng thể nào hiểu vì sao anh bạn Müller thân thiết đến
thăm mà cứ thèm thuồng lấm lét nhìn đôi giày của mình . Đôi giày của
Müller đã quá cũ nát khi phải hành quân liên tục, trong khi giày của
Kemmerich còn mới mà anh ta chẳng bao giờ còn có thể cần đến nữa.
Vậy đó , chiến tranh , ngay từ những ngày
đầu , nếu không cướp đi mạng sống của con người thì cũng tước đoạt của
họ mọi thứ cảm xúc , biến những chàng trai đầy mơ mộng trở thành những
kẻ thô lỗ , cục súc và tàn nhẫn . Chỉ có thực tại , thực tại , và thực
tại : ăn được thì ăn , ngủ được thì ngủ , yêu được thì yêu … Bởi nếu
không như vậy , họ chẳng thể nào có thể sống qua những khủng khiếp ,
kinh hoàng . Đó là những trận pháo kích dồn dập trong những chiến hào
chật chội , những cái chết thương tâm và đau đớn của đồng đội …Mới hôm
qua đại đội một trăm năm mươi người , hôm nay chỉ còn tám mươi . Mới
cuối hè đại đội một trăm năm mươi người , sang đầu thu nay chỉ còn ba
mươi hai trong hàng ngũ . Lớp lớp những chàng trai non trẻ măng tơ ra
chiến trường và lần lượt gục ngã …Chỉ có thể nhờ vào may mắn mà một ít
trong số họ còn sống sót để lại tiếp tục công việc nổ súng bắn vào con
người . Có lần , trong một trận tấn công , Paul Bäumer lạc vào chiến hào
của đối phương và đã phải tự tay mình đâm chết một người lính Pháp .
Nỗi đau đớn , tiếng rên rỉ kéo dài suốt đêm của người lính Pháp ấy , bức
ảnh người vợ cùng đứa con gái nhỏ của người lính Pháp_người thợ sửa ống
khóa hiền lành ấy đã khiến Paul Bäumer thảng thốt nhận ra sự thể kẻ anh
vừa giết cũng là con người . Anh nói với người ấy , bấy giờ đã là một
cái xác chết :”Này anh bạn, mình có muốn giết cậu đâu. Nếu cậu lại nhảy
vào cái hố này một lần nữa, mình sẽ không làm thế nữa đâu, miễn là chính
cậu, cậu cũng phải biết điều. Nhưng đầu tiên, đối với mình, cậu chỉ là
một ý nghĩ, một sự tính toán nảy ra trong đầu mình, rồi nó dẫn đến một
quyết định. Chính mình đã đâm vào cái sự tính toán ấy. Bây giờ, lần đầu
tiên, mình nhận ra cậu cũng là một con người như mình. Mình đã nghĩ đến
những quả lựu đạn của cậu, đến cái lưỡi lê và các thứ vũ khí của cậu;
nhưng bây giờ, mình nhìn thấy vợ cậu, cũng như nhìn thấy mặt cậu và
những gì giống nhau giữa hai đứa chúng mình. Bạn ơi, hãy tha thứ cho
mình. Bao giờ chúng ta cũng nhìn ra sự việc một cách quá muộn. Tại sao
người ta không nói cho bọn mình biết rằng chính các cậu, các cậu cũng
chỉ là những con chó khốn khổ như bọn mình, rằng các bà mẹ của các cậu
cũng đau khổ như mẹ chúng mình, rằng chúng ta đều sợ chết như nhau, đều
chết một cách giống nhau, chịu những nỗi đau đớn như nhau? Bạn ơi, hãy
tha thứ cho mình; tại sao cậu lại có thể là kẻ thù của mình? Nếu chúng
ta bỏ những vũ khí và bộ quân phục này đi, thì cậu rất có thể là người
anh em của mình, như Kat và Albert vậy. Bạn ơi, cậu hãy lấy hai mươi năm
của đời mình và cậu hãy đứng dậy đi… Đời mình còn gì nữa, cậu cứ việc
lấy nốt đi, vì mình không biết là từ nay mình còn làm những gì nữa”.
Paul Bäumer và những đồng đội của anh ,
ngày càng thấy rõ , cuộc chiến tranh mà họ tưới tắm bằng chính máu của
mình không thể đem lại niềm vinh quang cho bản thân họ . Người ta buộc
các anh phải nổ súng bắn vào cuộc sống , phải giết người .Và lý do của
sự giết chóc ấy ngay từ đầu đã thật phi lý. Người ta nói rằng tổ quốc
của họ đang bị xúc phạm . Nhưng những người lính thấy rằng :“ Một quả
núi của nước Đức làm sao lại có thể xúc phạm một quả núi của nước Pháp
được. Một con sông, một khu rừng, một cánh đồng lúa mì, cũng thế thôi.”
“Một anh thợ khoá và một anh thợ giày người Pháp sao lại muốn đánh
chúng ta. Trước khi đến đây, mình chưa hề gặp một người Pháp nào, và
phần đông người Pháp đối với chúng ta cũng thế .” Họ thấy rõ , không ai
trong số hàng triệu những người lính bình thường , không ai trong số
hàng triệu những người dân bình thường muốn có chiến tranh . Thế nhưng
trong cuộc chiến tranh này, một nửa nhân loại lại trở thành đám thiêu
thân lăn xả vào hỏa ngục , rốt cuộc đơn giản chỉ bởi vì những hoàng đế
và tướng lãnh của đất nước họ đang sống cần có những chiến công .
Những ngày ấy ở mặt trận , những giống ký
sinh trùng và chuột bọ không biết ở đâu chui ra mà sinh sôi nảy nở nhiều
vô kể . Hàng trăm con rận béo múp trú ngụ trong một bộ quần áo lính
rách rưới tả tơi. Chuột thì to lớn và gớm ghiếc khủng khiếp, người ta
gọi chúng là “chuột xác chết”. Không chỉ gặm bánh mì , chúng còn ăn thịt
lũ chó và mèo . Và chắc là vậy rồi , chúng xơi luôn cả xác người, bất
kể người Đức , Anh , Nga hay Pháp…
Mùa hè năm 1918 , tình hình mặt trận Miền
Tây trở nên gay go và đẫm máu hơn bao giờ hết . Hoa Kỳ đã tham chiến .
Quân Đức ngày càng kiệt quệ và tuyệt vọng . Bảy chàng trai cùng một lớp
học ra đi ngày ấy nay chỉ còn lại Kan và Paul Bäumer .
Mùa hè năm 1918 , cuộc sống với cái hình
dáng tả tơi thảm hại của nó càng khiến người ta thèm khát. Hoa mào gà đỏ
chói trên đồng nội Những cây cối trong hoàng hôn. Những ngôi sao và
những dòng nước . Những giấc mơ và giấc ngủ triền miên.
Cũng mùa hè năm 1918 , những tin đồn về đình chiến , về hòa bình bắt đầu xuất hiện .
Nhưng bất kể những người lính ngoài mặt
trận khắc khoải chờ đợi thế nào , chiến tranh vẫn chưa kết thúc , người
vẫn tiếp tục chết . Kan , người bạn thân thiết cuối cùng , bị một viên
đạn lạc , chết ngay trên vai Paul Bäumer , khi họ trên đường tới trạm
quân y.
Tháng 10 năm 1918 , Paul Bäumer chết. Anh
là người cuối cùng trong nhóm bảy người cùng một lớp học ngày ấy nghe
lời giáo sư Kantorek hăm hở ra chiến trường nằm xuống trong chiến tranh.
Ngày hôm ấy là một ngày khắp cả mặt trận yên tĩnh đến nỗi bản thông báo
tình hình chiến sự chỉ ghi một câu “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”.
“Anh ta ngã xuống, đầu về phía trước, nằm dài trên đất, như người đang ngủ.
Khi lật anh ta lên, người ta thấy hình như anh ta không đau đớn lâu thì phải.
Nét mặt anh ta bình thản và như biểu lộ một vẻ bằng lòng về cái kết cục như vậy.”
Cùng với “Giã từ vũ khí ” của nhà văn Mỹ
Ernest Hemingway , “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria
Remarque được xem là tiểu thuyết hay nhất về Chiến tranh thế giới thứ
nhất. Tác phẩm cũng được xem là cuốn sách bán chạy nhất Châu Âu suốt thế
kỷ XX.
Cũng như “Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”
của Erich Maria Remarque, “Nỗi buồn chiến tranh ” của Bảo Ninh là một
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh .Tác phẩm lấy bối cảnh Việt Nam , chủ
yếu mười năm trước và mười năm sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt
Nam kết thúc (khoảng từ 1965 đến 1985). Nhân vật chính tên là Kiên ,
cũng là một người lính. Mười bảy tuổi , chàng trai Hà Nội ấy say sưa
nghe lời hiệu triệu của thầy hiệu trưởng :“nước Mỹ sẽ bị hủy diệt ’’“chính
các em sẽ là những thiên thần trẻ tuổi của cách mạng, các em sẽ cứu
nhân loại”, cùng bao bạn bè hăm hở rời trường học để vào chiến trường .
Từ đấy ,“ cả thế hệ anh đã lao vào trận chiến một cách hăng say, một
cách hung dữ, đã làm đổ máu mình, đổ máu người.”. Mười năm Kiên chiến
đấu ở chiến trường Bắc Tây nguyên là những năm chiến tranh khốc liệt
nhất . Hàng bao núi xương sông máu ! Đói khổ , đạn bom và chết chóc vô
kể ! Chỉ riêng một trận đánh cuối mùa khô 1969 , toàn bộ tiểu đoàn 27
một ngàn hai trăm người bị bao vây rồi bị tiêu diệt , chỉ còn sót lại
mười người , trong đó có Kiên . Những cái tên “Truông Gọi Hồn ”, “Đồi
Xáo Thịt ” … lần lượt ra đời , những oan hồn lính của hai bên , của cả
dân thường … lưu lạc , vất vưởng khắp nơi khiến người còn sống yếu bóng
vía phải phát điên. Dạo ấy , các vạt đất ven triền sông suối uống no nê
máu người mà nở rộ những đám hồng ma . Ban đêm hương hồng ma càng “cô
đậm, ngọt, ngào ngạt, thẩm thấu”. vào giấc ngủ làm thành bao nhiêu là
giấc ngủ mơ kỳ lạ gây những ám ảnh khoái lạc mê mẩn”.
Chiến tranh , dù nhân danh vào bất cứ điều
gì , thực chất vẫn là sự chết chóc , là hủy hoại mọi thứ kể cả sắt thép
, gạch đá , nói gì đến sinh mạng con người… Đám trinh sát gai góc , dày
dạn như Kiên nhờ chìm vào đám khói mê dụ đầy ảo ảnh của hồng ma mà quên
mọi nông nỗi đói khát , đạn bom , chết chóc… của cuộc đời người lính.
Nhưng khi họ tỉnh thức , sự hư hoại , mất mát từng ngày của chất người
trong họ khiến họ âm thầm cảm thấy một nỗi tuyệt vọng thống thiết tràn
ngập tâm hồn mình . Chiến tranh , dù là giết được người hay bị người
giết cũng đều khốn khổ khốn nạn như nhau . Trong cuộc tấn công ở rìa Ban
Mê Thuộc năm 1975, khi những khẩu đại liên của Kiên và đồng đội bắn xối
xả vào đám tàn binh của trung đoàn 45 ngụy đang tháo chạy khỏi vùng đất
trống Phước An , hàng ngàn cái bia thịt rú lên rồi rũ rượi gục
ngã_những cuộc tàn sát man rợ ấy tuyệt nhiên không thể đem lại cho họ
cảm giác về một niềm vui sướng, một chút vinh quang nào.
Chương đầu của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến
tranh ” có một chi tiết kinh dị , ghê rợn và đầy ám ảnh . Năm 1974 ,
giữa tro tàn của một ngôi làng ở Tây nguyên , Thịnh “con” , người lính
cùng tiểu đoàn với Kiên , săn đuổi và bắn chết một con vượn . Tiểu đoàn
đã chuẩn bị nồi niêu dao thớt cho một buổi liên hoan tưng bừng , nhưng
khi cạo sạch được bộ lông con vật ấy ra họ mới phát hiện đó là thân hình
trần truồng một mụ đàn bà nửa xám xịt nửa trắng hếu , cặp mắt dựng
ngược trợn trừng . Cả bọn thất kinh rú lên rồi ù té chạy . Cái hình ảnh
con người quái gỡ thê thảm đang bị con người đem ra làm thịt ấy rõ ràng
là sản phẩm ghê tởm của chiến tranh . Chi tiết ấy rất có thể là thực ,
cũng có thể chỉ là một ẩn dụ , nhưng qua chi tiết vật người
này , người đọc đều có thể cảm nhận được thông điệp của nhà văn gửi tới
mọi người : chiến tranh chẳng thể là điều gì hay ho, nó là sự sự hủy
hoại , sự tước đoạt tàn ác khủng khiếp nhất với hình hài và phẩm giá của
con người .
Nhân vật chính của “Nỗi buồn chiến tranh ”
, Kiên_ chàng trai ngày nào đã tưởng mình là “những thiên thần trẻ tuổi
” hăm hở lao vào chiến tranh với lý tưởng từ chiến tranh , do chiến
tranh sẽ tạo dựng cả một thế giới mới ,“cứu cả nhân loại”, rốt cuộc cũng
phải cay đắng nhận ra sự thật nghiệt ngã :“Chao ôi! Chiến tranh là cõi
không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi
không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự
khủng khiếp nhất của dòng giống con người”.
Nhưng điều khủng khiếp nhất đối với Kiên
và đồng đội không phải chỉ là trải qua những thống khổ cùng cực của
chiến tranh mà còn là phải đối mặt với những sự thể tầm thường và thô
bạo của hòa bình . Nếu bi kịch của nhân vật người lính trẻ Paul Bäumer
trong “ Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” là không thể sống sót qua chiến
tranh thì bi kịch của Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh ” lại dường như
là qua hòa bình rồi mà vẫn còn sống sót . Nghịch lý chăng??? Cho đến
trận chiến cuối cùng ở cửa ngõ Sài Gòn , cả trung đội trinh sát mười bốn
người chỉ còn mỗi một mình Kiên . Chiều 30 tháng tư năm 1975, khi vẫn
còn ngất ngây vì men chiến thắng thần tốc , những người lính như Kiên đã
có cái cảm giác thật khó hiểu , thật lạ lùng : “ hòa bình ập tới phũ
phàng, choáng váng đất trời và xiêu đảo lòng người” . Hòa bình như một
thứ cây “mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” nhưng lập tức sau đó không
lâu lại khiến những người còn sống phải chứng kiến bao sự mỉa mai ,
chua chát vì những cuộc trở về “Không kèn, không trống, không khúc khải
hoàn thì đã đành rồi nhưng đến một chút đối xử có trước có sau người ta
cũng chẳng buồn giành cho bộ đội. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào
không khác gì lại một thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên,
kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người
ta cho rằng một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất
thoát, bị xâu xé, tranh đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh
là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác…’’. Tại các ga
tàu miền Bắc , khi các đoàn tàu dừng bánh ,“ loa phóng thanh oang oang
trút vào tai đám lính đui què mẻ sứt mắt trắng môi thâm này hàng lô xích
xông những lời dạy bảo trớ trêu nhất đời nào chống cầu an, chống đạn
bọc lường, chống thói đam mê các tàn tích của xã hội phồn vinh giả tạo
và nào là cần đặc biệt chống tư tưởng công thần?” Hòa bình nhạt nhòa dần
qua năm tháng và rồi sau đó với những người lính chỉ còn là một thứ ký
ức tủi hờn:“Về sau, mỗi khi được nghe người ta kể hoặc được xem phim,
được thấy cảnh ngày 30 tháng Tư ở Sài Gòn trên màn ảnh: cười reo, cờ
hoa, bộ đội, nhân dân, nườm nượp, bừng bừng, hân hoan, hạnh phúc… tự
nhiên trong Kiên cứ nhói lên nỗi buồn pha cả niềm ghen tỵ.”
Nỗi niềm bi thảm của những người lính Việt
Nam thời hậu chiến trong những trang viết của Bảo Ninh là có thực. Bi
thảm không phải chỉ vì những ám ảnh dai dẳng của sự mất mát trong quá
khứ mà còn bởi những thô bạo , tầm thường của hiện tại và cả sự vô định
mù mịt của tương lai. Những tấm khẩu hiệu đã bị vứt đi . Những cái mặt
nạ đã rơi xuống. Những phận người không biết về đâu . Nhiều người trong
họ mãi đắm chìm trong quá khứ, không phải đang sống mà là đang mắc kẹt
giữa cuộc đời . Nhiều người trong họ chán ngán hiện tại, ước phải chi
được chết một cách yên ổn như thân phận con sâu cái kiến trong những
ngày chiến tranh. Nhiều người trong họ không tìm thấy tương lai , lại
háo hức muốn trở lại những giây phút hào hùng của cuộc đời chinh chiến
khi binh lửa chiến tranh mấp mé ở hai đầu biên giới (1978_1979).
Tháng 4 năm 1975, Ủy ban Quân quản Thành
phố về đóng cạnh nhà tôi. Đó là dịp tôi được tiếp cận những con người mà
mười mấy năm qua chỉ nghe chứ chưa từng gặp. Họ là những chàng trai xứ
Bắc , những người lính khắc khổ , dày dạn chiến trường nhưng phần lớn
còn giữ được nét thuần phác giản dị đậm chất nông dân . Họ đội mũ cối ,
đi dép cao su và hình như ai cũng hút thuốc lào. Chập tối , giờ sinh
hoạt , từ ngôi nhà họ ở vang lên những lời ca hùng tráng : “Vì nhân dân
quên mình , vì nhân dân hy sinh…”, “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng
quyết tiến bước…”, “Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận …”. Ban
ngày họ ra ngoài rụt rè ngỏ ý bán đôi ba thứ : cân đường cát , phong
lương khô , bánh xà phòng …đều là hàng viện trợ của Liên Xô hoặc Trung
Quốc , và cũng tìm mua đôi ba thứ : cái radio , cái casset cũ hay con
búp bê , chiếc khung xe đạp xuất xứ Chợ Lớn … Đứa em nhỏ của tôi bấy giờ
mới sáu tuổi , sau mỗi bữa cơm của mấy chú bộ đội lại xách cái rá chạy
qua được mấy chú bộ đội tử tế gom cho những chỗ cơm thừa . Chỗ cơm ấy ,
chúng tôi đem rửa lại , xả sạch rồi phơi khô , đến bữa đổ thêm nước vào
hấp lên là thành cơm ăn được .
Đôi ba tháng sau , Ủy ban Quân quản giải
tán , từ đó tôi không bao giờ gặp lại họ nữa . Những ai đó đã đi về
đâu? Những ánh hào quang ngắn ngủi ban đầu của ngày chiến thắng phút
chốc nhạt nhòa rồi tắt lịm chỉ còn trơ ra tơi tả trần trụi những phận
người “mờ mờ nhân ảnh ”. Họ trở về quê để lại làm anh nông dân tay cấy
tay cày . Họ lại đến trường để học và làm anh cán bộ. Họ ở lại thành phố
và nắm những chức vụ trọng yếu trong chính quyền . Mấy chục năm sau ,
không biết số phận có làm ai trong họ như Kiên , trở thành nhà văn ,
chọn cách viết để giãi bày “để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi, để mà
chịu đựng, để giữ lòng tin, để mà còn muốn sống” giữa cuộc đời!
Nhân vật người lính trẻ Paul Bäumer trong “
Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” cho đến khi vào chiến trường, thậm chí
cho đến lúc chết, vẫn chưa kịp có một tình yêu. Hai người phụ nữ gắn bó
thân thiết với đời anh là mẹ và chị gái. Hương vị da thịt đàn bà đầu
tiên anh nếm trải là một người con gái Pháp khi anh và những đồng đội
của mình chiếm đóng một làng Pháp hoang tàn. Có đôi chút cảm xúc , nhưng
nói cho cùng , đó vẫn chỉ là câu chuyện đổi chác khi sự thân mật , gần
gũi được trả giá bằng những khoanh xúc xích và những ổ bánh mì từ khẩu
phần của lính.
Kiên của “Nỗi buồn chiến tranh ”thì khác.
Hình ảnh mẹ trong anh nhạt nhòa suốt thời thơ ấu . Nhưng mười bảy tuổi ,
còn là học sinh trung học , Kiên đã có một tình yêu sâu đậm với người
bạn gái tên Phương . Gần nhà , cùng trường , họ đã lớn lên bên nhau và
đã yêu nhau suốt cả cuộc đời mình , kể cả trong chiến tranh và hậu chiến
tranh. Câu chuyện tình yêu của Kiên và Phương là một tuyến song hành
với câu chuyện nỗi buồn chiến tranh trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết . Khi
này khi khác ,thậm chí có khi chủ đề tình yêu còn có vẻ đậm nét hơn ,
bi thiết hơn. Có thể vì sự băn khoăn về tính chất chủ đạo của hai chủ đề
, trong lần đầu xuất bản Bảo Ninh đã đặt tên cho tác phẩm mình là “Thân
phận của tình yêu”.
Nói theo sách tử vi , Kiên là loại đàn ông
được sao Đào Hoa chiếu mệnh . Còn nói như Phương , nhân vật nữ chính
trong truyện , Kiên là người đàn ông sinh đúng thời . Còn là một thiếu
niên, Kiên đã có những rung động đầu đời với Hạnh , chị hàng xóm xinh
đẹp để sau này “mãi mãi trong lòng Kiên lưu giữ thầm lặng một tình cảm
biết ơn đầy tha thiết và ngậm ngùi ” . Trên những dặm dài của những nẻo
đường chinh chiến sau này , Kiên từng cảm thấy “một niềm đắm say và một
cảm giác gần gũi da diết’’ với Hòa , cô giao liên người Hải Hậu xinh
tươi , người đã làm anh nổi giận đến suýt giết chết vì đã khiến cả nhóm
bị lạc đường . Rồi Hiền , cô thương binh người Nam Định trên chuyến tàu
về Bắc , “suốt đêm, mặc kệ rằng xung quanh lính tráng đùa cợt trêu chọc,
hai người thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, thỏa sức hôn hít nhau,
sống gấp lên với nhau những cây số cuối cùng còn vương lại của tuổi
thanh xuân chiến hào”. Và Lan , người con gái ở Đồi Mơ trong cái vắng
lặng của chiều tà với lời hứa về một sự đợi chờ đã “ làm trái tim anh
tan nát đi vì tuyệt vọng và hạnh phúc”. Cả người đàn bà câm thầm lặng
như một bóng ma trên tầng ba ngôi nhà anh mà anh đã “chiếm đoạt một cách
cuồng bạo, khốc liệt, giằng xé, thẳng thừng tàn phá,..”… Với những
người đàn bà ấy , ở Kiên , có cả những cảm xúc khi nồng nàn say đắm ,
lúc cay đắng xót thương chứ không đơn thuần là nhục dục . Mặc dù vậy ,
mọi thứ tình yêu , mọi cuộc dan díu đều không thể làm Kiên khuây khỏa
nỗi nhớ thương Phương . Như Kiên nói , đời anh có hai mối tình : mối
tình thứ nhất trước chiến tranh , với Phương; mối tình thứ hai sau chiến
tranh , cũng là với một mình Phương !
Cuộc tình của người lính tên Kiên với cô
gái tên Phương , so trong đời thực , có những điều không thực . Nói cách
khác , mối tình phi thực ấy là một thứ ngoa dụ của tình yêu _ thứ tình
yêu dai dẳng thống thiết mà những gian truân của cuộc sống không thể
ngăn trở và ngay đến cái chết cũng chẳng thể chia lìa. Từ thuở còn là
những oắt con , Kiên và Phương đã cùng thích rủ nhau chơi trò chơi chồng
vợ. Lớn lên một chút , hai đứa như hình với bóng cứ quấn quýt lấy nhau
như thể ở cạnh nhau bao nhiêu cũng chẳng vừa .Tình yêu ấy khiến cho tất
cả mọi người quanh phải xốn mắt nhưng với họ chẳng hề gì.
Rồi một buổi chiều cuối xuân đầu hạ trong
sân trường Chu Văn An , những Kantorex Việt Nam bắt đầu mê sảng kêu gào
:“nước Mỹ sẽ bị hủy diệt ’’ , “chính cái em sẽ là những thiên thần trẻ
tuổi của cách mạng, các em sẽ cứu nhân loại”. Đám học trò còn chưa học
hết lớp 10 tay gậy tay gộc , xẻng cuốc …hừng hực , hùng hổ hô vang: “Sát
Thát , Sát Thát …”
Cũng buổi chiều tháng tư nồng nàn ấy , hai
đứa trốn thầy trốn bạn đi bơi .“ Những lần ôm xiết ngắn ngủi chếnh
choáng trong làn nước màu lục nhạt. Những sợi rong lập lờ. Tiếng cá quẫy
đuôi. Và khuôn mặt trắng mịn của Phương nhòa trong nước, những chùm
bong bóng hơi thở, mái tóc ướt nặng, bờ vai, đôi chân dài, thân thiết,
tuyệt mỹ đến đau nhói trong lòng…” Hai đứa bơi sóng đôi một lúc một xa
bờ . Đó là “khúc sông đời thanh lặng , êm ả cuối cùng ”của hai đứa , để
từ đó “bắt đầu dằng dặc một chặng sông dài rực lửa ”bao nhiêu năm trời
chia cắt Kiên và Phương . Một cuộc chiến tranh.
Rồi Kiên vào chiến trường . Có lẽ cũng
chẳng có gì khác biệt với những đôi lứa trong chiến tranh nếu không có
cuộc tiễn đưa định mệnh ấy.
Sau ba tháng luyện quân ở Nhã Nam , tiểu
đoàn 36 tân binh được nhận lệnh lên đường đi B. Còn dôi mấy tiếng đồng
hồ để chờ tàu , Kiên bám ô tô về Hà Nội tìm Phương. Khi trở lại thì tàu
đã chuyển bánh. Cả hai tìm cách lên một chuyến tàu khác đuổi theo . “
Đêm ấy , trên đoàn tàu ấy, bên bờ tai họa và giữa cảnh rối ren, Kiên và
Phương chắc chắn là hai kẻ quá giang liều chết nhất. Say sưa, mù quáng,
phóng túng và cả tin, buông mình hoàn toàn theo ngẫu hứng, quấn chặt lấy
nhau cả hai đều mê mẩn mịt mù trong mông mị êm đềm ngây dại.”
Chính trong cái đêm mộng mị hoang đàng ấy ,
đoàn tàu bị đánh bom. Kiên và Phương lạc nhau. Và khi Kiên tìm thấy
Phương thì Phương đã là một người khác . Nàng bị đám lính cùng toa tàu
cưỡng hiếp . “Rách rưới, hở hang, lấm lem và đọng máu nhưng đồng thời
cũng hết sức mềm mại mịn màng, tròn trĩnh và trắng muốt. Phương nằm
nghiêng chừa chỗ cho anh nhưng dần dần như thể thấy lạnh, nàng co hai
đầu gối lên. Cái thế ngủ, thế nằm của trẻ con, đầu gối sát ngực. Chẳng
những vì quá buồn ngủ mà hẳn rằng lúc này, Phương hoàn toàn chẳng còn
thiết gì nữa, tuyệt đối buông thả, tuyệt đối không còn biết sợ là gì
nữa, Kiên nghĩ. Trù trừ một lúc, rồi anh luồn tay dưới gáy Phương nâng
nhẹ người nàng lên sẽ lột cái áo lụa cộc tay rách sã, lộn lần trái đang
sạch lau mặt, lau cổ, lau khắp mình mẩy Phương. Anh lột nốt cả chiếc
quần lụa, chùi vết máu trên đùi cho Phương. Thở dốc run rẩy, anh mặc
quần áo của mình vào cho Phương. Rồi anh mắc võng nằm.”
Khi Kiên tỉnh dậy , anh không thấy Phương
đâu . Anh lang thang đi tìm Phương .Theo lời những người lính thì Phương
của anh đang ở cùng đám lính lái xe . Mãi đến chiều tối , Kiên nhìn
thấy Phương ở một cái đầm , đang thản nhiên , điềm đạm tắm táp như không
có gì xảy ra. Đau đớn thất vọng ngập tràn , Kiên bỏ đi. Anh biết “hai
đứa sẽ không gặp được lại nhau nữa từ nay, bởi anh đã nhất quyết bỏ rơi
nàng”.
Họ biền biệt tin nhau cho đến ngày chiến tranh kết thúc, và Kiên may mắn vẫn còn sống sót để trở về.
Cũng không có gì đặc biệt nếu họ lại gặp
nhau và nối lại mối tình xưa. Bởi hai người họ vẫn ở trong hai căn phòng
kề sát nhau và vẫn dõi tìm nhau.
Nhưng mặc dù yêu nhau thế nào , họ vĩnh
viễn không bao giờ kết thành với nhau được nữa . Tình yêu của Kiên và
Phương sẽ không bao giờ mãn khai , không thể nào sinh nở .Tình yêu ấy bị
hủy hoại kể từ khi Kiên bước chân lên chuyến tàu chiến tranh và từ đó
họ ngược chiều nhau.
Cũng như chiến tranh , tình yêu với cô gái
tên Phương đã trở thành vô phương cứu vãn trong cuộc đời người lính tên
Kiên. Cũng như chiến tranh , tình yêu với người con gái ấy đã cuốn Kiên
vào vực thẳm của sự thống khổ . Chiến tranh và tình yêu hoàn toàn đối
lập nhau nhưng lại cùng một thuộc tính là sự cuốn hút bạo tàn. Có vẻ như
trong “Nỗi buồn chiến tranh ” của Bảo Ninh , nhân vật Phương đã trở
thành một ẩn dụ , hay nói cách khác , một hiện thân cho Thân phận của
tình yêu rực rỡ mà bi thảm trong chiến tranh. Kiên và Phương có sự đối
lập khá rõ ràng . Nếu như Kiên là người đàn ông đúng thời , thì Phương
lại là đứa con gái lạc thời. Nhan sắc dậy thì của Phương đã khiến người
ta phải xốn xang , phải bứt rứt , kinh hãi . Tình yêu thời tuổi trẻ của
Phương cuồng say , mãnh liệt , chẳng thể tự giấu mình . Cả hai thứ đó
đều chẳng thể vừa mắt cái thời của nàng. Cho nên , cả sắc đẹp lẫn tình
yêu của Phương trong con mắt tinh ý người họa sĩ già , bố của Kiên , đã
ngầm ẩn chứa một thứ tai họa _ thứ tai họa chẳng thể đặng đừng .
Cần phải lưu ý một số tình tiết Bảo Ninh
có thể đã cố ý xây dựng trong tác phẩm của mình . Trên chuyến tàu định
mệnh đêm ấy , trước ngày Kiên vào chiến trường , những kẻ cưỡng hiếp ,
hủy hoại cuộc đời Phương lại là những người cùng chiến tuyến với Kiên .
Về sau này , khi chiến tranh chấm dứt , Kiên trở về tìm Phương thì những
kẻ vừa ăn nằm vừa nhục mạ , phỉ báng Phương khiến Kiên không thể nào tự
kìm mình được , khiến trở thành vết thương sâu hoắm, kinh khủng trong
lòng Kiên _ những kẻ đó cũng chính là đồng đội của Kiên. Người đọc có
thể cảm nhận được dụng ý của nhà văn ở cách chọn lựa chi tiết này: nếu
như những kẻ hãm hiếp Phương , phỉ báng , nhục mạ Phương là những kẻ thù
bên kia chiến tuyến của anh , mối tình của Kiên và Phương sau chiến
tranh còn có khả năng được hàn gắn , thậm chí còn mặn nồng , da diết hơn
“Hoa tàn mà lại thêm tươi _trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa ”(Truyện
Kiều_Nguyễn Du). Nhưng nỗi cay đắng ngấm ngầm của Kiên , bi kịch của
Kiên là ở chỗ : tình yêu của Kiên và Phương đã bị hủy hoại bởi chính
cuộc chiến tranh và cả những thứ thuộc về cuộc chiến tranh mà Kiên dự
phần vào , đã say mê theo đuổi .Vậy mà bao nhiêu năm trời theo đuổi
chiến tranh , anh đã mê muội không nhận ra được điều đó .Trong khi đó ,
sự hủy hoại này đã được Phương dự cảm ngay trong buổi chiều tháng tư
nồng nàn họ trốn trường trốn bạn để được ở bên nhau : “Anh say mê cuộc
chiến tranh đến đứng ngồi không yên. Anh không yêu mẹ, không yêu cha,
không yêu tình yêu của em”và sự thể sẽ không thể là gì khác đi :“Em nhìn
thấy tương lai, – Phương nói – Đấy là sự đổ nát. Sự thiêu hủy.” Chọn
cuộc chiến tranh này , không phải là ai khác, chính là Kiên đã tự chọn
sự ngược chiều , sự hủy hoại tình yêu _cũng là hủy hoại ý nghĩa sự sống
của cuộc đời mình: “Chính là từ đấy, từ lúc bị giằng bật ra khỏi Phương,
đời Kiên bắt đầu thực sự đẫm trong máu, trong thương đau, trong thất
bại”.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật chính ,
người anh hùng trong chiến tranh, nhà văn đã không hề ngẫu nhiên khi
chọn Kiên _ kẻ lớn lên không cha mẹ , không anh em , không họ hàng , “
trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô
rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri
không lành. Có lẽ anh lớn lên chỉ với nhiều nhất là một phần hai nhân
cách”. Con người đó say mê giết chóc , tự mình hủy hoại tình yêu, rốt
cuộc là nửa phần đời còn lại lặng thầm đi thu nhặt hài cốt đồng đội của
mình , lặng thầm tưởng niệm những mảnh linh hồn đã bị hủy hoại của mình
.Trong khi đó người phụ nữ mềm yếu tên Phương “ bất chấp chiến tranh
kinh khủng, bất chấp bạo tàn và ô nhục, bất chấp sự rơm rác của những
định kiến và những giáo điều gò khuôn cuộc sống của con người. Phương
của anh vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viên bên
ngoài mọi thời buổi. Vĩnh viễn nàng tuyệt đẹp .”
Từ hình tượng cặp đôi Kiên_Phương, tác phẩm đã cất lên tiếng nói phản kháng chiến tranh, tụng ca tình yêu sự sống .
Không chỉ một mình Phương , hầu như toàn
bộ các nhân vật nữ trong “Nỗi buồn chiến tranh” đều là những con người
bất hạnh. Từ những người phụ nữ một cách nào đó có liên quan đến Kiên
như Hạnh (người hàng xóm), Hòa (cô giao liên người Hải Hậu) , Hiền (cô
thương binh người Nam Định), Lan ( người em gái ở Đồi Mơ ), người con
gái một đêm _ em gái của Vĩnh , cô gái câm trên tầng ba…; đến những
người phụ nữ một đời khóc chồng khóc con như mẹ của Can , mẹ của Lan ,
mẹ của Vĩnh . Dù là mẹ của liệt sĩ (mẹ của Lan , mẹ của Vĩnh ) hay mẹ
của lính đào ngũ (mẹ của Can ) , dù ở thành thị hay làng quê thì những
người mẹ ấy cũng cùng chung sự đói nghèo thê thảm và sự mất mát đau đớn
không cùng : “Cái xóm nhỏ ven thành phố nhưng mà đói nghèo thảm hại nổi
lên giữa một vùng dở đầm lầy dở bãi rác. Lũ trẻ ốm o rách rưới. Đàn chó
bẩn thỉu chạy rông. Ruồi muỗi chuột bọ, mùi hôi thối kinh hồn và những
ngọn gió cực kỳ tanh tưởi. Dân xóm nửa phần đi ăn mày, nửa phần chuyên
nghiệp bới rác nhặt giấy vụn và chạy đồ ăn cắp. Nhà của gia đình Vĩnh
cũng như mọi nhà khác trong xóm, nhếch nhác, tối tăm, chằng đụp, vá víu,
nhớt nhát. Cô bé này khi đó mới chừng mười lăm tuổi nước mắt lưng
tròng, thút thít, sụt sịt dỡ các thứ trong chiếc ba lô cóc bẹp dúm của
Vĩnh ra cho bà mẹ mù lòa rờ rẫm vuốt ve. Một bộ quần áo lính tàng nát.
Chiếc mũ tai bèo. Con dao xếp. Cái bát sắt. Cây sáo trúc đã nứt toác.
Cuốn sổ tay.”
Những người lính như Kiên , như Vĩnh , như
Can …, nếu có thể “cứu được cả nhân loại” , sao trước hết họ không cứu
lấy những người em , những người chị , những người mẹ của chính mình?
Những người em , những người chị , những
người mẹ ấy chính là hình ảnh của nhân dân : đông đảo mà lặng thầm , cam
chịu . Nỗi khổ đau mà cuộc chiến tranh này gây ra cho họ là vô lượng,
chỉ hai mươi năm binh lửa mà “đau thấu tới ngàn năm”.
Một nhân vật có vẻ như mờ nhạt lướt qua ở
một vài trang nhưng cũng dự phần thể hiện bức thông điệp nhà văn gửi tới
bạn đọc của mình . Đó là nhân vật người bố của Kiên . Như Phương nói:
Kiên không yêu mẹmột đảng viên thức thời ; nhưng cũng không yêu
cha_một họa sĩ lỗi thời. Kiên không yêu cha , cũng không hiểu nỗi lòng
của cha: “Kiên thấy ông thôi không đến làm việc ở viện bảo tàng nữa. ông
không lọc cọc đạp xe đèo giá vẽ đi thực cảnh nơi này nơi kia như mọi
năm. ông sử dụng tầng áp mái của chung cư để làm xưởng họa và ông hầu
như hoàn toàn giam mình lên trên đó. Ở trên đó ông âm thầm độc thoại và
âm thầm vẽ. Trong khí ẩm. Bụi bặm. Những con dơi loạng choạng bay như
trong hang núi. Kiên nghe người ta xì xào rằng cha anh bị phê phán và bị
đánh đổ, rằng bây giờ ông là nhân vật bất mãn đáng ngờ, một tay khuynh
hữu. ông đang trở thành lẩm cẩm và kỳ quặc’’.
Những bức vẽ của cha Kiên , dù là người hay
vật , toàn là những hình nhân dẹo dặt , héo mòn kéo nhau đi từng đàn
với sắc màu vàng vọt. Trước ngày chết , ông đã đốt toàn bộ báu vật cuộc
đời mình không để lại bức nào . Phải rất nhiều năm tháng sau này , khi
đã trải bao nông nỗi cuộc đời, Kiên người con trai của thời
đại đó mới “phần nào cảm được nỗi đau lẫn vị đắng cay trong những lời
cuối cùng của cha, mới hiểu được rằng dường như cha muốn trăn trối lại
cho anh điều gì.”
Điều gì cha Kiên đã muốn nói ra , điều gì
cha Kiên đã muốn trăn trối lại??? . Hình ảnh người họa sĩ trong những
trang truyện này thực sự gợi nhắc bi kịch của Người viết Quốc ca_ nhà
thơ_ họa sĩ Văn Cao cùng hàng trăm nghệ sĩ tài hoa nức tiếng một thời :
Hữu Loan , Quang Dũng , Phùng Quán , Hoàng Cầm …. Bao nhiêu cuộc đời mòn
mõi . Bao nhiêu đứa con tinh thần của người nghệ sĩ bị hủy hoại khi
chưa còn kịp chào đời hoặc ngay cả lúc vừa mới được hoài thai. Những tổn
thất không thể định giá . Những năm tháng nghiệt ngã ấy , trong nỗi
thống khổ tuyệt vọng vô bờ , Văn Cao đã âm thầm viết : “Bây giờ ở đâu
cũng có tiếng _Chưa nói lên” (Anh có nghe thấy không?_Văn Cao)
Những năm tháng ấy , những người lính như Kiên , như Vĩnh , như Can …, rốt cuộc đã đứng về phía nào của cái Đẹp?
Có một bài báo đã viết rằng “Nỗi buồn
chiến tranh ”của Bảo Ninh thậm chí còn hay hơn so với “Mặt trận Miền Tây
vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque. Sự so sánh đó rõ ràng là chủ
quan . Tuy nhiên , về một góc độ nào đó cũng có thể đồng ý rằng “Mặt
trận Miền Tây vẫn yên tĩnh” của Erich Maria Remarque là tác phẩm viết
hay nhất về Chiến tranh thế giới thứ nhất , trong khi “Nỗi buồn chiến
tranh ”của Bảo Ninh có thể được coi là tác phẩm hay nhất về chiến tranh
Việt Nam . Có những giá trị không thể đồng nhất nhưng điều dễ nhận thấy
là với những tác phẩm về đề tài hiện thực , khi người cầm bút đứng trước
nguy cơ phảỉ đối mặt với nhà cầm quyền, với sự kiểm duyệt thì chân thực
luôn là tiêu chí hàng đầu . Vì sự chân thực này , Erich Maria Remarque
đã khiến Adolf Hitler nổi giận và chính quyền Đức Quốc xã tỏ thái độ thù
địch ra mặt : sách của ông bị đốt trong một buổi lễ đốt sách khét tiếng
vào ngày 10 tháng 10 năm 1933, bản thân ông bị tịch thu tài khoản , bị
tước quyền công dân . Năm 1943, em gái ông là Elfried Scholz bị chính
quyền Đức Quốc xã xử trảm vì tội tuyên truyền “lật đổ”. “Nỗi buồn chiến
tranh ”của Bảo Ninh trong hai chục năm qua làm lay động trái tim người
đọc bởi nhà văn đã vượt qua được những thỏa hiệp để đến với một hành
trình khó khăn là nói lên sự thật . Đó là điểm khác biệt _cũng là điều
làm nên giá trị của“ Nỗi buồn chiến tranh ” so với hàng loạt các tác
phẩm viết về chiến tranh Việt Nam của các tác giả đương thời.
Tuy nhiên , như một câu thành ngữ Nga đã
nói :“Một nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không còn
là sự thật nữa”.
Khi cố gắng tìm tòi để thể hiện “Nỗi buồn
chiến tranh”, ngòi bút Bảo Ninh đã kết hợp rất nhuần nhuyễn các yếu tố
tự sự và nghị luận , trữ tình. Do tính chất “muốn được giãi bày ”của tác
phẩm , các yếu tố nghị luận , trữ tình đôi khi còn đậm nét hơn và vì
thế , thủ pháp dòng ý thức được thường xuyên được sử dụng như một lợi
thế . Trong tác phẩm, dòng ý thức của nhân vật Kiên chiếm một dung lượng
khá lớn, đó là những ngẫm ngợi của anh về nỗi buồn chiến tranh , về
thân phận của tình yêu, về thân phận của con người …Dòng ý thức ấy , khi
thì miên man vô tận , lúc thì đứt quãng đột ngột đã giúp kết nối các sự
kiện tưởng chừng rời rạc như không theo một trình tự thời gian không
gian nào . Trong đó, những dòng độc thoại thể hiện ý thức của nhân vật
Kiên về cuộc chiến tranh đã qua : “vì chúng ta đã chiến thắng nên đương
nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng”, “chính nghĩa đã thắng, lòng
nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã
thắng” , “cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát
anh đã phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay”…Sự lặp lại các
cụm từ : cuộc chiến tranh thần thánh , chính nghĩa đã thắng …có vẻ như
là cách nhà văn đối phó với mạng lưới kiểm duyệt vì rõ ràng sự lặp lại
có tính chất khẳng định này không logic , không nhất quán với những gì
nhân vật Kiên đã trải qua , những gì đã diễn ra trong tác phẩm .Và nếu
đúng như thế ,thứ sự thật nguy hiểm nhất ,“sự thật của các sự thật “rốt
cuộc vẫn còn chưa được nói ra.
Bà Aung San Suu Kyi, người phụ nữ năm
2015 đã mở một trang mới trong lịch sử Miến Điện , người phụ nữ đã dành
trọn vẹn tuổi thanh xuân tươi đẹp , hạnh phúc gia đình cho tiến trình
dân chủ của đất nước Miến Điện từng viết : “Chỉ nhà tù thực sự là sợ
hãi, và chỉ có tự do thực sự là tự do ra khỏi sợ hãi. Không có quyền lực
nào bị thối nát vì sự sợ hãi. Sợ bị mất quyền lực làm hư hỏng những
người sử dụng nó và sợ tai họa của quyền lực làm hư hỏng những người
trong diện với nó .”
Câu nói đó có nghĩa là , chỉ khi nào hết
sợ hãi , con người người mới thực có tự do. Các nhà văn, hơn ai hết, cần
có đủ dũng cảm để tự do bước ra khỏi sự sợ hãi của mình .
Nhân vật Kiên_cũng là nhà văn Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến tranh “có một điều ước : “Giá mà vào giờ phút giải phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh”. Điều ước đó không bao giờ thành hiện thực . Điều có thể trở thành hiện thực mà những người lính ấy mong muốn đơn giản là một lời nói thật. Bởi với sự thật ấy sẽ giúp không lập lại những vệt xe đổ của lịch sử , không lặp lại những cuộc chiến tranh vô nghĩa gây cảnh giết chóc bạo tàn . Chỉ khi ấy , cái chết của những người lính ấy mới không đến nỗi trở thành uổng phí . Chỉ khi ấy ,với mỗi người dân Việt Nam , “Nỗi buồn chiến tranh ” cả trong văn chương lẫn đời thực mới khả dĩ làm nguôi ngoai và thanh sạch lòng người .
Sài Gòn 9/12/2015
Hà Thị Lệ Hà K8