Nguyên là bài
Nhà Trần thời hậu chiến (
bài tiếp)
https://vuongtrinhan.blogspot.com/2018/01/nha-tran-thoi-hau-chien-bai-tiep.html
----
Sự tiếp tục các phương hướng vốn có trong chiến tranh là đường hướng
chính của việc quản trị đất nước của các vua Trần, đó là điều tôi đã nói trong
bài trong bài Nhà Trần thời hậu chiến .
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/05/cuoc-khung-hoang-cua-nha-tran-sau-khi.html
Bên cạnh cái mạch chính ấy, để được thấu đáo chúng ta có thể đặt
một câu hỏi: thế có ai đương thời nghĩ ra một phương hướng khác?
Khi viết về Trần Nguyên Đán ngòi bút
nghiên cứu lịch sử của Lê Tư đã trả lời cho câu hỏi đó. Toàn bài từng được
trang mạng Nghiên cứu lịch sử đưa lại, nay có thể tìm ở đường link
https://nghiencuulichsu.com/2017/02/10/tran-nguyen-dan-1325-1390-dai-than-nho-si-nha-thien-van-kiem-dao-gia-phan-12/
Đọc qua tôi thấy đây là bài viết có sự tham bác hiếm có bao gồm cả
sách vở chữ Hán, cả những tài liệu mới công bố ở báo chí Hà Nội trước và sau
1975. Đó là cách viết của những người thâm hậu Hán học quen xem văn
chương như một phương tiện phát biểu về lịch sử.
Với tiêu đề Trần Nguyên Đán đại thần nho sĩ nhà thiên văn kiêm đạo gia
bài viết nói về con người đa dạng và các lĩnh vực hoạt động của Trần
Nguyên Đán và trong mức độ nào đó là một thứ chân dung nhiều mặt của nhà thơ
được mang ra làm đối tượng phân tích.
Nhìn vào cách triển khai thì đúng như tác giả đã xác định từ đầu tức là bám sát vào thơ của nhân vật lịch sử được nghiên cứu. Trong nguyên bản vấn đề mà bài này gợi ra quá rộng, rộng hơn tiêu đề đã nêu.
Dưới đây, khi trích lại một số ý trong bài này, tôi chỉ dừng lại ở một
khía cạnh là “các đề nghị của Trần Nguyên Đán về phương hướng giải
quyết việc trị nước “ đã được Lê Tư trình bày gồm những
điểm gì và chúng ta nên tiếp nhận như thế nào. Tất cả các ý tưởng cho tới
các con số các chi tiết trích dẫn đều lấy từ Lê Tư, tất nhiên
trong đó có những đoạn tôi cho phép mình diễn đạt lại chút ít
xuất phát từ sự hiểu của tôi.
--------------
Tóm tắt tiểu sử nhân vật được nói tới:
Trần Nguyên Đán (1325-1390) là hậu duệ đời thứ 4 của Trần Quang Khải (1241 –
1294), vị Thượng tướng em ruột vua Trần Thánh Tông.
Ông từng giữ chức Ngự sử Đại phu thời Trần Dụ tông ( ông này làm vua từ
1341 – 1369).
Khi Nhật Lễ nối ngôi, chính sự rối ren, ông dâng thư can gián không được nên bỏ
chức mà về. Khi Trần Phủ phế truất Nhật Lễ, lên ngôi Minh Tông (1370 –
1372) phong Nguyên Đán chức Tư đồ, giao quản lĩnh xứ Lạng Châu (một phần các
tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng nay).
Năm 1374, ông chủ trì kỳ thi tiến sĩ tổ chức tại Thiên
Trường. Năm 1375, ông được giao việc quân trấn Quảng Oai (một phần thuộc Hòa
Bình, một phần thuộc Hà Tây cũ). Tuy nhiên, do sở hữu phủ đệ tại Thăng Long, ta
hiểu rằng Nguyên Đán kiêm quản công việc từ kinh đô, chỉ xuống địa phương khi
cần thiết.
Năm 1385, ông về trí sĩ ở Côn Sơn cho đến khi tạ thế vào năm 1390. Chức vụ cao
nhất của ông là Nhập nội Kiểm hiệu Tư đồ Bình chương sự, tước Quốc thượng hầu.
Nguyên Đán trưởng thành, làm quan suốt thời suy tàn của nền văn minh Lý-Trần.
Tóm tắt hoàn cảnh
Thực ra chính quyền hồi ấy rất yếu. Điều này tôi đã nói rõ trong bài Nhà
Trần thời hậu chiến mà tên nguyên văn là Cuộc khủng hoảng của nhà Trần
sau khi đánh thắng quân Nguyên đây chỉ dẫn lại Lê Tư để nói thêm.
“Qua lời các nhà thơ đời Trần, chúng ta biết những địa điểm như Chi Lăng
(Lạng Sơn), Chân Đăng (Phú Thọ), Trường châu (Ninh Bình), núi Phả Lại (Hải
Dương) bị coi như vùng biên viễn, bên ngoài là không gian mường mán. Quyền lực
triều đình chỉ nằm gọn trong đồng bằng sông Hồng, cộng thêm vùng duyên hải trải
dài từ châu Ái đến biên giới Chăm. Không gian chật hẹp này loang lổ những thái
ấp, điền trang, đất thế tập của thổ hào hoặc tài sản tôn giáo, những tiểu vùng
mà quyền lực triều đình khó lòng chạm đến.
Phan Phu Tiên, sử gia đời Lê sơ có nhắc lại lời tâu lên Minh tông bởi kẻ sĩ
đương thời về hệ thống quản lý thiếu chặt chẽ như sau:
Trong dân gian có nhiều người du thủ du thực, đến già vẫn không có hộ tịch,
thuế má không nộp, sai dịch không theo.
Thời tiết thất thường trên môi trường thoái hóa tại châu thổ sông Hồng
vào nửa sau thế kỷ XIV là nguyên nhân quan trọng khác tạo nên biến loạn xã hội.
Theo Lê Tư, “hoàn cảnh thúc bách từ cả hai phía trong-ngoài đòi hỏi tầng
lớp cai trị phải thể nghiệm biện pháp khả thi nhằm thay đổi tình thế vì hiệu
quả của cơ cấu chính quyền dựa trên lý thuyết tam giáo đồng nguyên nhưng đậm
chất bản địa đã chạm điểm tới hạn.
Theo tôi, do biểu hiện dưới hình thức thơ tâm sự, các ý tưởng Trần
Nguyên Đán có cái của những lời tự nói
với mình nhưng lại cũng khá rõ ràng. Nó gồm mấy ý:
-- có phải nguyên nhân tình trạng suy thoái là một lối cai trị thiếu trí
thức
-- và điều này không chỉ là trái với những nguyên tắc của Nho giáo mà là
trái với lẽ phải thông thường.
-- đừng vì muốn làm khác Trung Hoa mà đi vào con đường sai lầm.
Đến đây tôi nương theo Lê Tư để tóm tắt hai loại phản ứng của nhà cầm
quyền trước tình hình trên và bề sâu của các loại phản ưng đó.
Dụ tông thường chỉ được diễn tả như ông vua chơi bời hưởng lạc. Nhưng
khách quan mà thấy ông đã có thay đổi dù sự thay đổi này chỉ là nghe theo kẻ
khác.
Toát lên ở các phát biểu của ông vua đáng chê này một lời khẳng định: chúng ta
tan vỡ tại vì chúng ta không dùng trí thức.
Và ông đã được các trí thức đương thời ủng hộ
Đoạn trên vừa dẫn Phan Phu Tiên, ông này mệnh danh “kẻ sĩ”, thuộc
nhóm trí thức mới chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Tống nho như Phạm Sư Mạnh,
Lê Quát, Trần Nguyên Đán. Các nhà nho thuộc trường phái Chu Văn An này đưa ra
lời kêu gọi cải cách mạnh mẽ nhất là phải xây dựng hệ thống hành chánh
thư lại kiểu nho giáo, lấy phương Bắc làm mẫu mực.
Nhưng dù đã được Dụ Tông đỡ đầu, tư tưởng của nhóm này vẫn
không được các vị vua tiếp theo loại như Nghệ Tông tiếp nhận . Ngược lại trước
các rối ren đa số trong giới quý tộc cầm quyền đổ lỗi cho chính các nhà
nho mặt trắng.
Đứng ở góc độ con người cuối thế kỷ XX đầu XXI mà dự đoán, tình hình
chắc còn phức tạp hơn nhiều, nhưng đây đã là cái mạch đi chính của tư tưởng
thời đại mà Trần Nguyên Đán trở nên nhân vật ngược dòng
--
So với các vị tôn thất đầy uy quyền của nhà Trân bấy giờ, Trần Nguyên
Đán có cách nghĩ khác.
Là một vị tướng oai danh hiển hách, nhưng trong nhiều trường hợp Trần
Nguyên Đán lại có tâm trạng ngược hẳn với những cùng vai vế với mình hoặc nói
cách khác là các đồng nghiệp, những người làm nên chiến công hiển hách để đời .
Hai bài thơ sau cùng diễn tả tâm trạng Trần Nguyên Đán khi dẫn binh lính
đi tuần ở các địa phương xa kinh đô. (chúng tôi chỉ dẫn bản dịch còn nguyên văn
chữ Hán, mời các bạn đọc lại Lê Tư )
Cả hai cũng cho thấy chiến chinh là gánh nặng trong tâm vị tướng họ Trần và ông
có cái tâm sự chẳng tiêu biểu cho người anh hùng chút nào: ông chán việc binh
đao lắm rồi và chỉ muốn về nhà .
bài một
Sáng tác khi ở trong quân (Quân trung tác)
Chức Chấp kim ngô chẳng là nguyện ước bình sinh,
Cười nói dưới cờ lọng quang dầu đâu phải kế lâu dài !
Chốn nào còn cảnh tượng đẹp mắt ?
Một đời không dám mang lòng dối trời !
Cuối mùa xuân, tiếng quyên kêu ai oán ngưng bặt,
Từ muôn dặm, lòng muốn về đối diện bóng trăng lẻ loi.
Ngồi chờ binh lính ca khúc khải hoàn,
Tựa gối ngọc trên chiếu trúc nơi cửa sổ phía nam.
Đây không phải cuộc hành quân hướng về đối thủ Chiêm Thành, kẻ địch khó
chịu mà khi nhắc đến vua tôi Trần phải sa nước mắt. Lúc này Nguyên Đán
đang lo dẹp giặc cỏ nổi lên vì đói kém. Giết chóc hay bắt bớ dân đen dĩ nhiên
chẳng mang lại hứng thú nào. Ông không dối lòng khi khẳng định chỉ muốn về nhà.
bài hai,
Cảm xúc khi ở trong quân ( Quân trung hữu cảm)
Mang thương, cầm bút, thân nhẹ như mây,
Nhẫm tính… rời nhà vừa đúng mười tuần,
Báo bình minh, gà vàng gáy kinh động giấc mộng đất khách,
Giục trở về, tiếng chim đỗ vũ đưa tiễn xuân tàn.
Đường đời còn dài, công danh chưa muộn.
Bèo nước gặp được nhau, cố nhân lại mãi nơi nào !
Chỉ nhàn tản giữa biển rộng trời cao,
(Như) chim âu trắng hiền lành nơi sông im sóng lặng.
Hãy thử so sánh với một quab chức khác Phạm Sư Mạnh, ông này được
lệnh tảo thanh hoặc thanh tra khu vực rừng núi Đông Bắc-Tây Bắc, còn Nguyên Đán
đi tuần khu vực duyên hải. Trong khi Phạm Sư Mạnh rất hãnh diện và nhớ ơn vua
khi được chỉ huy quân đội, Trần Nguyên Đán buồn bã, cô đơn khi sống trong môi
trường “kém thanh lịch” (chữ của Lê Tư). Ông chẳng màng đến mệnh vua khi xông
pha bên ngoài.
Thế đâu là nhân tố chi phối Trần Nguyên Đán trong những năm này? Ngược
lại với tâm lý say sưa vì chiến chinh, lòng ông hướng cả về
sự phát triển của xã hội mà công việc cụ thể là hướng về việc đào
tạo các phần tử trí thức để dựa vào đó có thể cai trị một cách sáng suốt
Họa vần bài thơ xướng hoạ của các thí sinh trường thi
Hán, Đường, hai Tống, đến Nguyên, Minh,
(Đã có) Lệ đặt khoa từ chương để chọn người tài tuấn.
Sao giống cách cầu thực học của thánh triều !
Nên biết (cách tuyển này khiến) muôn đời sau dứt hẳn tiếng bình phẩm.
Xem sách xong lúc canh hai, cung điện thâm u,
Mưa vừa tạnh khi gió thu nổi, vầng trăng tròn đầy.
(Thắp) nén nhang ngự, hương bay thông đến cửa khuyết,
Mong nghe tên vị Trạng nguyên trung, hiếu.
Trong một dịp khác, ông có bài thơ sau , khái quát cả xu
hướng trọng văn khinh võ ở cơ tầng sâu xa nhất
Tặng Mẫn Túc
Suốt đời chịu làm việc chế tác trống, tù và hay sao ?
Cười chết được bọn mặc áo cừu, hăm hở phóng ngựa.
(Họ sẽ) Thẹn thùng vì không có tiếng tốt lưu lại đời sau,
Bài hát cuồng loạn chỉ vọng lại âm hưởng thâm u.
Ai bảo vật này là vật phi thường !
Tự biết ta hôm nay cũng là ta lúc trước.
Khuyên ngươi hãy chuyên cần học theo Chu, Khổng,
Khoe lạ, đua khéo có cũng như không.
Lê Tư dẫn giải:
Mẫn Túc hẳn mang vật lạ đến cho Nguyên Đán xem. Theo lời lẽ, cả Mẫn Túc lẫn
“phi phàm vật” đều liên quan đến quân đội. Nhiều khả năng đó là chiếc trống hay
cái tù và. Nguyên Đán không đánh giá cao món quân dụng tinh xảo, mà lại khuyên
chàng trai trẻ theo nghiệp Tống Nho. Trần Nguyên Đán làm trong đài
Ngự sử hoặc giữ chức Tư đồ, ngạch văn chức. Tuy nhiên, ông cũng kiêm coi việc
quân ở Lạng châu, Quảng Oai. Câu “Tự giác kim ngô diệc cố ngô” (Tự biết ta hôm
nay cũng là ta lúc trước VTN chú ) rất thú vị: ông tướng bảo viên võ quan
cấp dưới rằng ta vẫn là một văn nhân. Có nghĩa ông tự hào với một chữ văn -
theo nghĩa rộng của thời trung thế kỷ tức chính trị tư tưởng....
Từ đây có thể dự đoán là khi bắt gặp những ý tưởng muốn dựa vào đạo Khổng
Mạnh mà trước tiên là dựa vào các trí thức mà đám Phan Phu
Tiên nói trên đã bộc lộ, Trần Nguyên Đán ngầm tán thành. Với việc Trần
Nguyên Đán đã từng là ngự sử dưới thời Dụ Tông, lại có thể nói không
chừng ông tướng họ Trần thích văn này là một trong những tác giả của những đề
nghị đó.
---
Thơ văn đời Trần thường được miêu tả như những chứng tích của chiến
thắng. Trong cái mạch ấy, những bài thơ của Trần Nguyên Đán mà Lê Tư dẫn
ra như lạc sang một cái mạch khác.
Bây giờ chúng ta thử cắt nghĩa hai câu hỏi tại sao lại có tâm trạng như
vậy.
Trước hết là những quan sát của Trần Nguyên Đán về tình hình xã hội đương
thời
Thơ làm trong thuyền về ban đêm
Dân chúng khắp nơi như cá trong đỉnh nước sôi,
Đất Yên phía bắc, đất Biện phía đông đã thành gò đống.
Trên thuyền về, không dỗ được giấc mộng nơi sông hồ,
Mượn ánh đèn chài đọc quyển sách xưa.
Kèm theo những thể nghiệm trên, là những trải nghiệm của vị ngự sử
này về giới quan chức
Nhưng cả hai cái đó chưa đủ, nếu ở những nhân vật tầm cỡ quốc gia như Trần
Nguyên Đán thiếu đi học vấn.
Đến đây có một khó khăn là chúng ta không có tài liệu nào để hiểu
về trình độ của giới quý tộc đời Trần.
Trong quá nửa phần cuối bài của mình, Lê Tư đã hướng tới một chủ đề khác.
Ông nói về những ảnh hưởng Trung Hoa – cụ thể là Nho học - với giới quý
tộc đương thời.
Phần này gồm có mấy ý
1/ ảnh hưởng của Trung Hoa có từ thời đầu nhà Trần. Chính Chu Văn An là người
đã mang lại cả các lý thuyết nho học lẫn cái sinh khí mạnh mẽ của đám
người di dân
2/ ở phần ngược lại, giới quý tộc Trần khồng thể tiếp thu nho giáo trọn vẹn vì
họ muốn làm khác phương Bắc.
Mấy ý rất quan trọng này của Lê Tư, trong trường hợp có thể chúng tôi sẽ
trở lại vào một dịp khác.
Ở đây, tôi chỉ chép lại một đoạn nguyên văn của tác giả mà tôi nghĩ là đã
gói ghém nhiều ý khác nhau:
Theo Toàn Thư, Tiều Ẩn Chu Văn An người huyện Thanh Đàm (nay thuộc Hà
Nội), được Trần Minh tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái
tử. Qua lời ca ngợi bên trên, chúng ta thấy Văn Trinh thuộc dạng cư Nho mộ Lão.
Cái mới mẻ trong phép tắc và học thuật của Văn Trinh đến từ nguồn nào ?
Nhà sử học nổi tiếng ở Hà Nội Trần Quốc Vượng (1934 – 2005), người từng
cùng Vũ Tuân Sán đến Thanh Liệt tìm hiểu sự tích liên quan đến Văn An đã phát
hiện gia phả họ Chu, theo đó, cha ông là một người Phúc Kiến tên Chu Văn Hưng.
Thanh Liệt chỉ là quê mẹ. Khi tổ tiên Ông đến biển Nam hẳn đã mang theo kiến
thức mới lạ, vốn là thành tựu của văn hóa rực rỡ đời Tống. So với tiền triều
Lý, văn thơ Trần dưới ảnh hưởng di dân có sức bật lớn, phồn tạp hơn về đề tài,
đầy đặn hơn về số lượng, phong nhã hơn về câu cú. Nhà nho Đại Việt đã được (hay
bị) Hán hóa mức độ cao hơn trước nhiều.
Nguyên Đán tin rằng quốc gia sẽ được ổn định nếu nhà cầm quyền sử dụng nho sĩ
trong quản trị xã hội. Ý tưởng này vào thời điểm đó không hoàn toàn trùng hợp
với đường lối trị nước của hoàng tộc Trần. Minh tông và Nghệ tông, mặc dù trao
quyền cho nho thần một cách rộng rãi, vẫn phê phán ý tưởng cải cách điển chế
quá triệt để của bọn “học trò mặt trắng”.
Bài viết của Lê Tư còn nói về phương diện đạo gia và nhà thiên văn ở Trần
Nguyên Đán, nhưng tôi cho là mấy ý trên là thiết cốt nhất, nên tạm tóm tắt như
trên.
Lê Tư còn là tác giả một bài viết nữa trên Nghiên cứu lịch sử mang tên Người
Việt hợp tác với giặc Minh:
https://nghiencuulichsu.com/2017/06/12/nguoi-viet-hop-tac-voi-quan-minh/
tên đề lấy ở ĐVSKTT
Toàn Thư: “京路多從賊以叛
Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản”
(Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.)
bài sau này tôi cũng rất muốn tóm tắt vì nói về một khía cạnh
bản chất của người Việt vốn hình thành từ nhiều thế kỷ trước. Nhưng xin để dịp
khác.