Xã hội hiện đại là cả một guồng máy khổng lồ nó cuốn người ta đi và sự thực là nhiều khi chưa biết rõ việc làm của mình có ý nghĩa gì, nhiều người đã phải lao vào hành động để đáp ứng sự đòi hỏi của hoàn cảnh cũng như để tạo nên những bước đi nhịp nhàng với các đồng loại. Đến khi có dịp nhìn lại những lần “nhắm mắt đưa chân” kiểu ấy, người ta không khỏi bỡ ngỡ, như là ai khác chứ không phải mình đã làm việc này việc nọ. Song thì giờ dành cho phản tỉnh đâu có nhiều? Và thế là các kịch bản cũ, nói chung lại được tiếp diễn, kể cả các bi kịch. Và tôi ngờ rằng dù đã tỉnh táo đến đâu, nhiều khi chúng ta vẫn không hình dung hết quy mô của tấn bi kịch mà chúng ta đã thể nghiệm. Từ đây, lại dễ sinh ra thói xuê xoa, lấp liếm, thái độ lảng tránh sự thực, tức là cái bi kịch về sau thường đá thêm một chút sắc thái hài kịch.
Dưới
đây, tôi thử nêu lên một bi kịch nhỏ, mà một số người quen của tôi đang trải
qua. Tôi thành thật tin rằng các nhân vật của bi kịch không phải không nhìn thấy
tình thế của mình. Có điều, nói như A. Camus, khi đã xuống thuyền rồi
người ta không thể quay trở lại được nữa.
Ấy
là câu chuyện về một công việc đáng lẽ rất sang trọng. Việc một số giáo sư tham
gia đào tạo lớp người kế tục, các phó tiến sĩ (nay đã đổi là tiến sĩ).
*
Từ
nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc đó, bởi trong chuyên
ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời gian đầu, mỗi khi gặp
nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn anh nhăn nhó và kể với tôi
là các ông bà phó tiến sĩ tương lai ấy buồn cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới,
vốn đã rất yếu nên sau mười mấy năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng
là đã xong đại học mà nhiều khi “chẳng hiểu nếp tẻ gì cả” (trong ngôn ngữ hàng
ngày, Ng. thường thích thậm xưng một
chút như vậy).
Nhưng
có lẽ do sự nhạy cảm đặc biệt trước nhu cầu thời đại, một số trong họ lại rất
sính bằng cấp, có thể nói là muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi giá. Thế là hình
thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy. Song làm mà vẫn ngại,
vừa làm vừa chán chường. “Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả
dây dưa gì đến văn chương thì mới dám tiếp tục” -- anh Ng. có lần tâm sự.
Nhiều
năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu không muốn nói cứ
đuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này Ng. ít nói tới chuyện đào tạo.
Trong hoàn cảnh của một người đã đến tuổi về hưu sắp lo làm sổ, anh chỉ còn mải
miết tính nốt những việc đang dở dang và đáng lẽ nên để cho anh yên thì phải
hơn. Thế nhưng trong cuộc đời này, ai dám bảo đảm là đã vắt kiệt cái máu Đông
Ki-sốt trong người? Không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, chính tôi lại
có lần máy mồm trở lại hỏi han về cái chuyện đào tạo của Ng:
--
Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?
--
Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ
tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.
--...
--
Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung nó chạy
theo hướng nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.
Đến
chỗ này thì tôi hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung
quanh về khía cạnh chính của vấn đề. Là không vất vả như luyện thi, nhưng công
tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng vớ lắm, càng học trò ở các tỉnh xa hoặc
loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy. Không ai công
bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng giăng với nhau cả chỗ
riêng tư lẫn chỗ đông người.
Chẳng
cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng. Từ chỗ chê ỉ
chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc. Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được
anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào. Anh mang
lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải. Giờ đây có ai đó
trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới công tác hướng dẫn luận án,
anh không bắt lời nữa. Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng
đây là chuyện mâm cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một
cách soi mói.
*
Không
phải chỉ riêng anh Ng. kính mến của tôi rơi vào tình thế nói trên. Mà ở ngành
nào, người ta cũng nghe nói tới những ca tương tự và cách xử lý tương tự. Bắt đầu
là kiếm ăn, sau coi đó là sự nghiệp: Không ít người thông minh đã gặp nhau ở
cùng một cách nghĩ!
Tiếp
theo nhiều lời eo sèo bị bỏ qua, về phần mình, tôi muốn được phép bàn rộng thêm
ra và bàn theo cái cách hơi cổ một chút.
Các
cụ xưa có hai tiếng “thất đức” để chỉ những việc làm để lại di hại cho nhiều đời
sau. Giá bây giờ tôi bảo với những người như anh Ng. rằng công việc các anh làm
có thể phải gọi là thất đức, lập tức sẽ có nhiều lý lẽ phản đối. Các anh là những
giáo sư giỏi. Các anh chỉ đi dạy học, lo truyền thụ kiến thức cho người khác.
Xưa nay, ở xứ ta, nghề dạy học cũng như nghề làm thuốc bao giờ cũng được trọng
vì người làm nghề chỉ lo trồng cây đức cho thêm tốt tươi, chứ sao gọi là thất đức
được?
Nhưng thử nghĩ, dưới tay anh Ng “mang nhãn hiệu
của anh Ng”, bên cạnh những cán bộ khoa học tạm được, (và có thể có những người
biết đâu còn vượt cả anh Ng. nữa) cũng đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm. Mà càng những
người kém chuyên môn càng giỏi xoay xoả, leo trèo. Sau khi có bằng cấp, một số
trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong nghiên cứu khoa học và đào tạo
các lớp người sau. Nói cách khác, lớp người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp
số nhân. Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những
đồng sự của anh. Tôi rất ngại dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra chữ khác
đích đáng hơn.
Đã in Nhân nào quả ấy 2002