VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Đặng Tiến : Độc cô Thanh Tâm Tuyền


Nguồn https://www.diendantheky.net/2023/04/oc-lai-ang-tien-oc-co-thanh-tam-tuyen.html#more

(Có kèm thêm làm phụ lục một bài thơ tự trào của TTT viết năm ông 36 tuổi)

--

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.


Hôm sau, bạn hiền Phạm Phú Minh, báo tin và yêu cầu viết bài, chỉ cần khoảng 2700 chữ, trong hai ngày, cho kịp báo Thế Kỷ 21 lên khuôn. Tôi lo toáng lên: hai ngày thì đào đâu ra 2700 chữ về một tác gia nổi tiếng là khó khăn và khó tính ? Giá mạng chữ nghĩa của tôi giỏi lắm là vài ba trăm chữ, thôi thì đành viết trong giới hạn đó.


Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học Miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp Lửa.


Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn nhà thơ lúc trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ thuật : Thơ, Văn, Nhạc, Họa, như ở các nước phương Tây.


Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.


Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo.


***


Sau đây là phần phát triển :


Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ Mừng Năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử. 


Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.


Sau đó, hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau : Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt, rồi vào Nam.


Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Độc, 1956, và truyện Bếp Lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào « nhóm » Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.


1962, bị động viên vào trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hóa, « tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch » (1972), cấp bực cuối cùng là Đại úy. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong hơn mười năm, tại nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuổi cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.


Thanh Tâm Tuyền là tác giả khoảng mười đầu sách ; ba tập thơ : Tôi Không Còn Cô Độc (1956), Liên - Đêm - Mặt Trời Tìm Thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở Đâu Xa (1990, Mỹ). Ba truyện : Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Đường (1967). Ba tiểu thuyết : Cát Lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng Động (1970). Một vở kịch ngắn : Ba Chị Em (1965). Một phiếm luận Tạp Ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, ví dụ như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, là một tác phẩm quan trọng.


Miền Nam Việt Nam những năm 1955-1960 bừng lên một sinh khí văn hóa. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thị sau chiến tranh, tình hình an ninh và giá cả ổn định, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc, nhưng nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người Sông Thương.


Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều ; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút.


Mười lăm năm sau, 1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an vị, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đã có hai bài : một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét bỏ đến yêu thích ; một bài giải thích « lối thơ Thanh Tâm Tuyền » qua bài Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu : Tôi buồn khóc như buồn nôn… Tôi buồn chết như buồn ngủ…


Tôi Không còn Cô Độc có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói ‘tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ’, hay ‘có người cầm súng bắn vào đầu/ đạn nổ nhịp ba / không chết’. Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách :


  • Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ ».


Lê Huy Oanh kể lại rằng : « trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực » (báo Văn đã dẫn, tr.8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng.


Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, Đèo Cả của Hữu Loan, Sáng mát trong như sáng năm xưa của Nguyễn Đình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ : loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc ; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra « diễn ca », còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.


Dựa trên lời Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, « nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm ».


Câu này trong bài Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài Mấy Ý Nghĩ về Thơ của Nguyễn Đình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.


Chất hiện đại trong thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ Siêu Thực của nhóm Breton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già, vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên tiếp xúc được với nhiều tác giả mới trên thế giới như Laurence Durrell hay Solzhenitsyn qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng Hòa Thế Giới :


Các anh Cộng Hòa đã chiến đấu cho Tây Ban Nha


Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca Một Breton tình điên còn nức nở Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức Và mãi Ernest còn tiếc thương Andalousie đói quên khiêu vũ Việt Nam ốm yếu quên ca dao


Câu ‘quốc tế ca’ của Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là câu đăng trên báo Sáng Tạo, 1957:


Hãy cho anh khóc bằng mắt em 

Những cuộc tình duyên Budapest 

Anh một trái tim em một trái tim

. Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác .


Bài này làm vào thang 12- 1956, một tháng sau khi Hồng Quân Liên Xô, nhân danh khối quân sự Vác- xô- vi tràn ngâp Hung-ga-ri và thủ đô Bu-đa-pet


Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố : Vác-xô-Vi, Béc-Lin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moscou, Praha, Paris, Madrid, Bruxel, Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố : thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hóa ; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường Chèo làng Đặng ; gần hơn, Đinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm ; đến Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô Độc là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ :


Tôi đã chết nghẹn ngào

ôm tình yêu tự do chật ngực tôi chết và chối từ

đừng ai gọi tôi là thi sĩ

(…)

Hôm nay tôi dự hội hôm nay dùng mắt nhìn hôm nay dùng lời dịu cô độc phút tan tành tôi không còn cô độc


Ông già : tôi không còn cô độc

Hợp xướng : tôi không còn cô độc

Em gái : tôi không còn cô độc


Hợp xướng : không ai còn cô độc không ai còn cô độc


Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng :


Một người da đen một khúc hát đen

Bầu trời đen sâu không cùng

Những giòng nước mắt

Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng

Bằng giọng của máu của tủy của hờn bắt đầu ngày tháng

Giữa rừng không lối rừng mãi trống không (…)

Vì blues không xanh, vì điệu blues đen Trên màu da nức nở

(Đen, Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957)


Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thùy Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam ; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân Bắc Bộ ; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện : trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.


Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bàim thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.


Có ai đó đã viết về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ Thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Họa hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội họa như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội họa, và thân thiết với các họa sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài Nhân nghĩ về Hội họa viết năm 1956 – hai mươi tuổi – ông đề tặng ba người ấy.


Họa sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự họa ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là Hóa Thân, Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ : anh vẽ cái gì thì cũng là hóa thân vào bức họa, tranh nào rồi cũng thành chân dung họa sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hóa thân của Apollon – les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.


Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội họa :


  • tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính » (báo Văn, số đã dẫn, tr. 78).


Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.


Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Dòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, đã trở về cõi thủy chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta trong trong thân phận làm ngưồi, làm người trong hay ngòai đất nước, luôn luôn trong nhân loại.

Trong truyện Bếp Lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời,--- khi hiu hắt, khi ngời sáng trong tâm thúc thế hệ chúng tôi :


  • Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng ».

Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi. Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.

Thanh. Tâm. Tuyền. Thanh Tâm Tuyền.


Orleans, ngày 24-3-2006

______


  1. Thanh Tâm Tuyền, báo Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.



***

PHỤ LỤC "THANH TÂM TUYỀN & MỘT THOÁNG TỰ TRÀO

 Trong một bài viết về Thanh Tâm Tuyền trên trang Fb Huỳnh Duy Lộc 27-5-2021 tôi thấy tác giả có dẫn ra bài thơ gọi là “Thơ mừng năm tuổi” làm năm Nhâm Tý (1972) của tác giả những “Tôi Không còn Cô Độc” (1956) “Bếp Lửa” (1957)...

Nhận thấy bài thơ có cái dọng tự trào rất hiếm gặp - nhất là khi ông mới ở tuổi 36 - tôi xin chép lại sau đây 



MỪNG CU NGHỆ BA MƯƠI BẢY TUỔI.

 

Ba mươi bảy tuổi.

Một vợ, bốn con — ba trai, một gái.

Non chục quyển sách in, gần 20 năm văn nghệ (hơn kiếp đoạn trường Kiều)

 Thơ, kịch, truyện ngắn, dài và tạp nhạp.

Non chục ngàn trang, đăng bừa bãi

— kế độ nhật —

chẳng buồn thu lượm

 liệng nhét trong ngăn, hộc, tủ, kệ, thùng, rương...

 nhóm lửa lót nồi

 

Được chê bai, được khen ngợi,

được công kích, được tán dương,

được choàng hoa, được lăng mạ. Ồn ào.

Được gọi nhà văn, nhà thơ miền Nam. Tùy tiện.

 

Tiền phong, độc lập với người này.

 Phản động, tay sai với kẻ nọ.

 Múa gậy vườn hoang với đám kia (Cũng vui!)

 

Không thẻ hội viên văn nghệ.

Không chân đoàn thể hay đảng phái.

 Không thế lực nhà thờ (La Mã hoặc Tin Lành) hay chùa chiền (Ấn Quang hoặc Quốc Tự).

Không thiết Tả, Hữu, Trung, Siêu.

 

Mòng mòng.

 Hoan hỉ mòng mòng.

Nghiêm túc mòng mòng.

 

Chưa một ngày rời chân khỏi nước.

Mê nhớ Paris, mọi thủ phủ, mọi thành phố, chốn đám đông tụ tập chen chúc và hiu quạnh — chưa quen như đã thông tỏ.

 

Phiêu lưu xó nhà xó bếp, tửu quán trà đình, phường phố ngao du.

Ngớ ngẩn dăm ba mối tình còm. Tuyệt vọng…”

 

***

Từ kinh nghiệm của tôi, nhìn vào giới nhà văn, rất hiếm gặp - nếu như không nói là không có - lối tự trào kiểu này. 

Đấy là tôi nói chủ yếu về giới văn chương Hà Nội nơi tôi hành nghề. Trong cơ quan đơn vị luôn có họp hành kiểm điểm định kỳ đấy nhưng người ta lo khoe mình là chính để còn lên lương đề bạt và do đó dễ ín sách in báo chứ ai dại gì lạy ông tôi ở bụi này. 

Có mấy ai tính chuyện đối diện với mình và xem xét mình trong cái mông lung mà rành mạch của lịch sử. 

Phải có một vốn văn hoá thâm hậu lắm và trước tiên trong một xã hội thịnh trị lắm người ta mới có thể có một triết lý sống biết điều như TTT trình bày ở đây.





















Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn