TRỞ
LẠI VỚI L.
ARAGON –
NHÀ
THƠ PHÁP CÓ ẢNH HƯỞNG
TỚI
ĐỜI SỐNG VĂN HỌC HÀ NỘI
TRƯỚC
4-1975
Nguyên là bài
Thế nào là trở cờ, thế nào là
thay đổi niềm tin chính trị? Trường hợp L. Aragon (1897 – 1982)
https://vuongtrinhan.blogspot.com/2017/12/the-nao-la-tro-co-nao-la-thay-oi-niem.html
Phần đầu đưa lại dưới đây đã được sửa chữa
--
Tháng 12-2022 là dịp kỷ niệm 40 năm ngày mất của L. Aragon (1897 –
1982) và tính theo năm là 125 năm ngày sinh của ông. Đối với những người
làm thơ viết văn, và nhiều người đọc hiện nay tên ông là một cái gì xa lạ.
Nhưng đối với thế hệ tôi thì khác. So với hôm nay, thời trước chúng tôi được
yêu cầu là phải chú ý tới phương diện chính trị của việc viết văn nhiều hơn.
Mặc dù ngày nay trước những chuyện như thế này chúng tôi cũng đã bị thời gian
làm cho chai lì đi, và quan trọng nhất là mọi việc đã được hiểu theo cách khác,
nhưng nhắc lại câu chuyện tìm tòi tư tướng thời cũ thì phải nhắc tới ông.
***
Khi gõ mấy chữ “nhà thơ Louis Aragon“, vào mục Wikipeda tiếng Việt tôi
đọc được một phác thảo tiểu sử quá sơ lược, và lại thiên lệch nữa. Đại
khái như mấy dòng sau đây:
...Thời kỳ Thế chiến II, Aragon tham gia phong trào Kháng chiến, là
nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào này.
Các tập thơ Le Crève-Cœur, (Dao trong tim, -- [hồi
1960, được dịch là Nát lòng VTN ] in1941); Les Yeux d'Elsa, (Đôi
mắt Elsa, 1942); thể hiện lòng yêu nước và sự quay về với những đề tài tình
yêu cổ điển.
Ngoài thơ ca, Aragon còn là một nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị
về những vấn đề của văn học hiện đại. Louis Aragon mất ở Paris năm 1982.
Trong khi đó, vào Wipedia bằng
tiếng Anh, rồi đọc bản dịch tự động bài viết này, tôi thấy được bổ sung rất
nhiều, trong đó nổi bật cái ý là sự thay đổi niềm tin chính trị nơi Louis
Aragon, thể hiện đầy đủ qua các sáng tác.
Muốn đọc bản tiếng Anh này xin xem
/translate.google.com.vn/translate?hl=vi&sl=en&u=https://en.wikipedia.org/wiki/Louis_Aragon&prev=search
Sau đây là đoạn quan trọng nhất trong bản dịch bài
viết trên đã được tôi chỉnh lại cho sát với văn phong tiếng Việt
Sau chiến tranh, Aragon trở thành một trong những trí thức Cộng sản hàng đầu,
đảm nhận những trách nhiệm chính trị trong Uỷ ban Quốc gia về các nhà văn
(Comité national des ecrivains ).
Năm 1950 được bảo trợ bởi M.Thorez, Aragon được bầu vào ủy ban
trung ương của Đảng Cộng sản Pháp.
Từ tháng ba 1953, Aragon trở thành giám đốc phụ trách văn
học của báo L'Humanité , tức tờ Les Lettres françaises .
Tuy nhiên, vị trí đó không bảo vệ ông khỏi mọi hình
thức chỉ trích.
Khi tạp chí Les Lettres françaises
cho in một bản vẽ của Pablo Picasso vào dịp Stalin chết vào tháng 3 năm 1953,
Aragon không tránh khỏi bị công kích.
Trong nhiều năm, ông đã được thông báo về cuộc đàn áp đối
với những phần tử phi Stalinist từ người vợ gốc Nga của ông; dần dà niềm tin
chính trị của ông thay đổi hẳn.
Với sự trợ giúp của trưởng ban biên tập Pierre Daix , Aragon bắt đầu một cuộc
đấu tranh chống Stalin và những hậu quả của nó ở Đông Âu .
Năm 1956, Aragon ủng hộ cuộc nổi dậy ở Budapest , sự kiện này dẫn tới sự
tan rã của Comité national des écrivains , tuy cùng năm đó, ông vẫn được trao
giải thưởng Hòa Bình Lenin .
Tiếp đó, tờ báo mà ông là linh hồn liên tục lên án chủ nghĩa
độc tài Xô viết, bằng cách đăng bài vở của các nhà bất đồng chính kiến,
và lên án các phiên tòa xét xử đối với các nhà trí thức (đặc biệt là phiên tòa
Sinyavsky-Daniel năm 1966).
Ông đã ủng hộ mạnh mẽ phong trào được gọi là mùa xuân Praha vào tháng 5
năm 68.
Những phát biểu của ông được Milan Kundera
dẫn lại như một lời cổ vũ, một sự hướng dẫn đầy thuyết phục (xem La
Plaisanterie tức Trò đùa).
Mặc dù bị chỉ trích, Aragon vẫn là thành viên chính thức của Ủy ban trung ương
của ĐCS Pháp cho đến khi ông qua đời.
--
Cái ý rõ nhất trong bài viết trên mà tôi tiếp nhận được: người nghệ sĩ - mà
có một thời những nhà thơ hàng đầu ở Hà Nội coi như một chỗ dựa về tinh thần -
không phải là một cái gì nhất quán. Ông đã thay đổi theo sự thay đổi của hoàn
cảnh.
Cũng như nhiều trí thức đương thời L.Aragon lúc trẻ
say đắm những tư tưởng cộng sản bao nhiêu thì từ 1956 lại cuồng nhiệt làm
công việc phê phán niềm tin đó bấy nhiêu.
Trước sau có hai Aragon. Đó là điều tối kỵ với một xã hội thích ca ngợi sự
trung thành, đồng nghĩa với bảo thủ.
Nhưng trước mắt chúng ta không phải là một con người cơ hội
mà là một Aragon thay đổi một cách chính đáng.
Khi thấy ông làm cái công việc ngày nay gọi là quay xe đó, nhiều bè bạn
của ông, nhiều người hôm qua khâm phục ông, nay quay ra phê phán ông đôi
khi bằng những lời lẽ tệ hại.
Bởi sự non nớt của mình lúc đầu tôi rất hoang mang.
Chỉ đến khi thấy ông phản tỉnh một cách vừa đầy lý trí vừa đầy đau
xót tôi mới nhận thấy sự có lý của ông.
Trong những bài phản bác lại những người chê trách
mình, ông nói đại ý
-- có những người mà người ta có thể đề ở trên mồ dòng chữ : người này không
bao giờ sai lầm
-- tôi không phải loại người đó.
Cái ý đó đã được chuyển tải khá đầy đủ trong bài viết mang tên
Phải gọi sự vật bằng tên của nó. Người dịch bài này ra tiếng Việt
là một trí thức nổi tiếng từ trước 1945, Đinh Gia Trinh.
Bài dịch được in
trên trên Tạp chí Văn Nghệ ra ở Hà Nội khoảng 1960-61.
Sáng suốt nhìn lại sai lầm hôm qua của
mình, đấy chính là sự khác nhau giữa Aragon và những người thay đổi niềm tin
một cách dễ dãi bao gồm cả những kẻ xu thời.
Ở Việt Nam hồi đó cũng có những người làm chung quanh lầm
tưởng giống như Aragon.
Đây tôi không nói về cái sự ấp úng thường thấy trong cách biểu
hiện tư tưởng của những nhà văn nhà thơ Việt Nam.
Chúng ta ở vào một xã hội khác với L. Aragon, chúng ta chẳng biết cái gì
đến nơi đến chốn, nên sự dè dặt lại chính ra là lương thiện.
Nhưng dè dặt mà vẫn dai dẳng theo đuổi đến cùng.
Đặc biệt, tôi muốn nói tới cái cách thay đổi của những
người làm nghề trí thức VN nhưng lại quá ít chất trí thức.
Số người này lúc đầu rất ít, nhưng vào những năm tháng cuối
thế kỷ XX đầu XXI này ngày một nhiều thêm.
Đó là những người bề ngoài cũng như ông, có khi họ còn
dùng những lời lẽ quá đáng hơn ông để nói về những điều mà hôm qua họ tin
tưởng.
Nhưng tuyệt đối ở họ
không có một chút xót xa tiếc nuối trước sự thay đổi ở mình .
Họ làm việc phủ nhận mình một cách dễ dãi và cả vui vẻ nữa.
Tức là không có cuộc tìm tòi chân lý nào ở đây. Họ chỉ cốt làm nổi con người
của họ, thế thôi.
Dân gian gọi những người này là trở cờ -- trở cờ chứ không phải hối hận
và tôi thấy đây chính là một cách nói có lý.
Trở lại với tình hình những năm sau 1956 cho tới cuối thế kỷ
XX khi Liên xô sụp đổ, tôi thấy L. Aragon thành tâm hơn đáng tin hơn, do đó khi
có dịp tìm hiểu thêm về sự tay đổi ở ông tôi không bỏ qua.
Bởi tôi muốn lấy ông làm điểm đối chiếu để xem xét bước đi của những nhà văn Việt Nam
đương thời.
Dưới đây, tôi xin
phép giới thiệu lại hai bài viết đã đưa trên blog của tôi từ 15-8-2012 và
29-1-2015
----------
1/
LOUIS ARAGON , CON NGƯỜI CỦA NHỮNG ĐAM
MÊ VÀ LẦM LẠC
Ngay cả trong thời kỳ kháng chiến 1946-54, nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo
tiếng gọi của kháng chiến vẫn chuyền tay nhau báo chí sách vở viết bằng tiếng
Pháp, để tiếp thêm cho mình hiểu biết và nghị lực.
Và trong những ngày đó, bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard
v.v... có tên một người Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ
sĩ và trí thức Việt Nam, đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris
đang rên xiết dưới gót giày phát xít khi "suối đã đục dòng chỉ lệ còn
trong"; một Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng
địch hậu chuyền tay nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp
nhất:
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi nào biết được
.,.
Đảng đã cho tôi màu sắc nước non nhà..
Tố Hữu dịch.
Lời thơ có gì gần gũi, như chính nó được viết bằng tiếng Việt.
Nhưng đó không phải là hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ
sau 1956, khi mà nhiều trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư
tưởng, hoặc nói như chính Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác
lại hiện ra với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ
thánh, những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng
cái tên của nó, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau day
dứt:
- Tôi chờ đợi một trùng dương hạnh phúc
Một tình ái không vướng dây trần tục
Suốt bình minh đến chiều xẩm mơ hồ
Nhưng cuộc đời thực tại chẳng nghe cho
Đời tạo những diệu kỳ theo kiểu khác
Đào Xuân Quý dịch
hay:
- Hạnh phúc là một tiếng vô cùng chua chát
Ma quái nào che giấu nghĩa làm chi
Tóc ảo mộng và bàn tay huyền hoặc
Những cặp tình nhân ngày xưa đã mất
Hạnh phúc như vàng kia ôi tiếng dị kỳ
Nó lăn trên sàn như chiếc nhẫn lăn đi
Ai nói đến hạnh phúc mắt thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi tuyệt vọng chua cay
Dây đàn dứt trong tay người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc con người là có thật
Không phải trong mơ không phải trong mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên quả đất này
Tế Hanh dịch
Cũng may là ngay từ 1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự
đóng góp của một lớp nhà thơ Việt Nam có những tâm trạng ít nhiều gần gũi với
L. Aragon. Đó là những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Đào Xuân Quý,
Nguyễn Viết Lãm...
Nói may vì từ đó trở đi, nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ
được nhắc tới một cách nhỏ giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác
phẩm đồ sộ của Aragon, thì chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.
Song cái lạ là ở chỗ ấy, có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái
mà hàng ngày người ta vẫn thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả
những năm về sau, Aragon trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì
làm người chiến sĩ lẫn sự dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với
nghề cầm bút, từng có lúc trải nghiệm.
Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác ở việc đi tìm
chân lý.
"Tôi biết có những người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao
giờ lầm lạc, vì họ đã đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì
là tốt, từ trước đã luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không
được phát hiện với tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được
giai cấp của gia đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao
tâm tổn trí, tôi biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có
một niềm tin chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo
âu, đau đớn của từng trải".
Thêm vào đấy, một Aragon hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với
Elsa Triolet, Aragon và cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu
thuyết Giết chết, Blanche hay lãng quên, bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp
nhau để làm nên Aragon của một tình yêu không dễ dãi.
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà
khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên Aragon. Đây là câu chuyện liên quan
đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất nước đứng lên thuộc loại cán bộ
quân đội được điều động trở lại chiến trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông
cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý
sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh, Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu
cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc
nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn nghệ quân đội là Hà Trì gửi vào
năm ấy (trước khi đi chiến trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả),
có một cuốn sách tiếng Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một
chuyến thăm Liên Xô 1957. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển truyện bỏ dở)
trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những câu khác, đại loại:
Tôi nghe tiếng gà trong cùng tận đau thương
Trong đổ nát tôi vẫn mang chiến thắng
Dù xé rách những vì sao xa vắng
Trong đêm dài tôi vẫn chói vừng dương
Aragon trong chúng tôi là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để
lại trong tâm hồn ông và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ
là một con người cuồng nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda
phản bội (người ta cố nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở
nên gần gũi.
Sau này tôi còn được biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống
trong thế kỷ XX lớn lao và đau đớn này.
Có người tỉnh táo hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác
trong sáng và thuần nhất hơn Aragon.
Nhưng đối với riêng tôi, tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp
thân thiết bậc nhất.
Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu.
Khi giở các trang bách khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp,
thường tôi tìm ngay xem trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào,
dài hay ngắn và lấy đó làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn
sách tra cứu ấy theo đuổi.
Trong sinh hoạt văn học, đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những
nhà văn được coi là mốt, để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về
đường dài, tôi thường chỉ đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi,
họ ở phía trước của tôi và có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể
theo họ, đó cũng là con đường để tôi tìm ra chính mình.
2/
NHỮNG ĐAU XÓT CỦA MỘT NHÀ THƠ
KHI BUỘC PHẢI THAY ĐỔI NIỀM TIN CHÍNH TRỊ
Số phận của phần lớn các nhà thơ hiện đại là phải dính tới chính trị. Aragon
lại có cả một mảng thơ lớn liên quan đến sự dấn thân của ông trong chính
trị.
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng –để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt,
còn câu thơ nào hay hơn câu ấy.
Nhưng rồi, như rất nhiều người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó,
niềm tin của ông đã thay đổi.
Luôn luôn ông là người của sự quá đáng. Lúc tin ông cũng tin quá đáng, mà
sau đó không tin cũng quá đáng.
Về lý trí, ông chấp nhận mọi sự thay đổi, trong khi về tình cảm, ông như
muốn kêu trời, ông như chết lặng đi vì sự thay đổi đó với ông là quá sức.
Tôi vốn thích các nhân vật đương thời coi là phức tạp, nên cứ để ý theo dõi ông
mãi.
Từ thời điểm của thế kỷ XXI này nhìn lại, chúng ta có thể bảo là ông đã
rất dũng cảm.
Con tim của ông đã được một trí tuệ sáng suốt mách bảo để dám vượt qua lòng tin
của mình thời trẻ, mà làm một cuộc đảo ngược thiết yếu.
Nhưng hồi ấy, người ta đã gán cho các ông đủ thứ tội lỗi, nào là suy đồi nào là
phản bội,toàn những cái tội tầy đình mà một người yếu bóng vía
không chịu đựng nổi .
Run rẩy đớn đau, nhưng Aragon đã thay đổi. Quá trình dằn vặt của ông
được miêu tả trong cái công thức sau đây mà tôi nghe được qua
lời kể của Nguyễn Thành Long một nhà văn đàn anh hay đọc văn học Pháp đương đại
“tối nào cũng tính tới chuyện ra đảng, mà sáng nào lại cũng phải nghĩ lại là
phải ở lại đảng để đấu tranh cho niềm tin mới của mình”.
Từ trước 1975, đọc thơ Aragon trong giai đoạn ông có những chuyển biến
trong niềm tin chính trị mà bài thơ trên diễn tả, quả thật là tôi -- với tư
cách một con người đang sống ở Hà Nội, cái xứ sở bị bịt kín mọi thông tin
đa chiều -- cũng không biết là ông đúng hay những người chê trách ông
đúng nữa.
Nhưng, những năm đó tôi đã mang máng cảm thấy có lẽ chuyện chính trị ở một nhà
thơ chẳng mấy quan trọng như chúng tôi hằng nghĩ. Mà cái cần được chia sẻ
đặc biệt là người nghệ sĩ đã thể nghiệm sự thay đổi ra sao. Tức là tôi
thích tìm trong những vần thơ ấy ở cái khía cạnh tâm trạng của
người đã tiêu hóa sự thay đổi của mình, cái dấu ấn nó để lại trong tâm
trí nhà thơ. Đây mới chính là những bài học.
Được viết ngay từ 1942, vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng
được đặt sau một câu đề từ:
Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng
qua cùng một bệnh với Đan Thiềm.
Câu nói nổi tiếng tới mức nhiều người không đọc và không thích vở kịch nữa vẫn
cứ hay đọc lại nó.
Vả chăng sinh thời Nguyễn Huy Tưởng, ông là một người phụ trách chủ yếu của Hội
văn nghệ VN, thời kháng chiến chống Pháp nên người ta cũng không bới ra làm gì.
Chứ thử nghĩ kỹ sẽ thấy, đây là một thứ tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất
phi tư tưởng của văn chương.
Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc
lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai lầm của họ.
Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một
thứ mùi vị gì .
Trong một lần trò chuyện với nhà nghiên cứu thông thạo văn học phương Tây hiện
đại Đặng Anh Đào, tôi nghe chị nói khẽ, nhưng cả quyết như một lời tâm
niệm:
-- Với các nhân vật lớn, chính nhân cách lại quan trọng hơn tư tưởng rất nhiều.
Đối chiếu với những vận động trong tư tưởng của những người trong giới cầm bút
chung quanh, tôi chỉ thấy người ta hoặc là ù lì trơ tráo, bị ép chết trong
những niềm tin hồi trẻ, hoặc là chuyển sang cái trận thế đối ngược một cách quá
dễ dàng, dễ dàng như người ta quay ngoắt một chiếc xe đạp.
Aragon, như trong bài thơ trên đã bộc lộ ông cho thấy một tâm thế
khác.
Rồi ông cũng vượt lên trên cái sức ép bão bùng cuả chung quanh đối với một
người thay đổi. Ông tìm thấy một chỗ dựa cuối cùng ở tình yêu. Ông bảo
tình yêu sẽ cứu rỗi tất cả. Trong khi bảo mình như kiệt sức như tuyệt vọng, thì
ông lại cảm thấy mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người nhân bản trong ông đã
thay thế con người chiến sĩ. Mà cái phần nhân bản ấy mới là tinh chất làm nên
một nhà thơ.
1-2015
PHỤ LỤC
Một bài thơ Aragon
--
Có một điều lẽ ra phải nói từ
đầu:
-- có những người cũng như ông, không phải trở cờ không phải xếp hàng hai cửa.
Sự thay đổi của họ chẳng những có lý mà còn rất chân thành.
-- Nhưng họ dừng lại ở những phát biểu chính luận. Lúc này họ chỉ còn con người
chính trị.
-- Aragon vượt lên trên họ ở chỗ tất cả những thay đổi niềm tin nơi ông đều
chuyển vào thành thơ và văn xuôi, nhất là thơ. Ông vẫn là con người văn
học.
Bởi vậy phải đọc lại chính các sáng tác của Aragon.
Nhờ được phóng chiếu niềm tin vào thơ văn, sự thay đổi của ông còn
mang tính khái quát.
Con người có thể và cần phải thay đổi, miễn là họ thành thực và
miễn là họ đã vận dụng tất cả tri thức và tình cảm của mình để suy xét để đánh
giá.
Họ rất yêu sự lựa chọn của mình thời trẻ, nhưng họ là những con người độc lập,
họ phải là chính họ trước đã.
Có những lúc nào đó họ đã đóng vai người chiến sĩ tử vì đạo, nhưng cả cuộc đời
họ thì không.
Tôi không biết tiếng Pháp, còn trình độ tiếng Nga của tôi chủ yếu dùng để
đọc văn xuôi, nhất là văn nghị luận chứ với thơ thì e chưa đủ. Nhưng tình yêu
với Aragon vẫn khiến tôi tìm đọc các bài thơ Aragon dịch ra tiếng
Nga rồi thử ghi ra tiếng Việt để bản thân minh đọc lại.
Bởi vậy tôi không dám đặt bài thơ tôi dịch dưới đây ở phần đầu bài
này, mà chỉ đặt ở cuối, hy vọng rằng có một ít bạn nào đó muốn chỉa sẻ
với tôi sẽ đọc tới cùng.
Lưu ý là một số bản tiếng Nga tôi đọc để chuyển sang tiếng Việt- như bản
dưới đây - là của nhà thơ xô viết M. Aliguier. Bà dịch những bài thơ này sau
các tai nạn chính trị mà những người như bà phải chịu hồi "hậu tan
băng". Có lần bà đã bảo do đau quá mà không được viết nên tìm
cách tự bộc lộ qua bản dịch.
[Không đề ].
Cuộc sống tôi trôi qua như
những luống cày bốc lửa trên bầu trời
Tôi nghe tận đáy sâu tiếng bước chân
mình vọng vang xa ngái
Tiếng hát tôi tưởng đã hỏng
rồi đã xếp xó rồi lại ngân lên lần nữa
Trên đầu ngón tay tôi lặng lẽ tính
những ngày những tháng những năm
Đối với tôi vượt lên sự dối gian
tràn đầy cuộc sống
Chỉ có tình yêu tôi như một cây sồi
đơn độc
Chỉ có tình yêu tôi run rẩy một trò
chơi
Trên đời này, ngoài nó ra
chẳng còn gì, chỉ có nó mà thôi
Tất cả những gì tôi làm hướng
tới em, là để cho em
Người làm vườn mỹ lệ đây lá cuốn cả
vào phòng
Những bài thơ tôi viết, vẻ dại điên
mỗi ngày lại hiện ra khuôn mặt mới
Tất cả để em yêu và mãi mãi
yêu em.
Từ sự tồn tại của tôi, như một chiếc
gai cây, sự thất vọng lớn bật lên
Em làm quà cho tôi một mặt trời ngữ
ngôn sáng chói
Tất cả những gì tôi gọi lên, có em
trong từng bước
Em hồi phục trái tim tôi, em nặn lại
nó rồi
Chuyện thật lạ lùng hãy nhớ
lại xem
Hầu như vào những năm lớn khôn ai
cũng ra đi lần nữa
Để ghi lại những chuyến đi, có
thể vẽ cây vẽ cỏ
Nhưng cần vẽ hơn cả
chính là thế giới bên trong của mỗi con người
Tất cả sự ví von đều vô hiệu,
hình ảnh cần thiết chẳng tìm ra
Nung nóng mọi chữ nghĩa lên vẫn
không đủ nói về ngọn lửa
Trong những đôi mắt thẳm sâu, hạnh phúc và ngọn lửa chập chờn nhảy múa
Có thể kể làm sao với ai chưa
thấy nó bao giờ
Hình như nhiều lúc tôi quên mình
nhiều đau khổ
Thật đau điếng đi, khi bẻ gẫy
tay mình
Tôi ruồng rẫy thơ, như với bạn bè
dứt mọi mối quan hệ
Nhưng con đường rồ dại đời nào tôi
chịu là chẳng có em
Tôi đã nói rằng thế giới này chẳng
có gì kỳ diệu
Cái đích mà tôi đi tới thì không có
tôi mọi người khác cũng đủ lo toan và công việc
Mỗi người trong họ nhìn tôi như một
kẻ bề trên
Vâng tôi đã khóc vì không có
gì khác họ nhưng là khóc trong tay em
Người ta nói với tôi khi không có
bánh mì câu chuyện về hạnh phúc chỉ chuyện huyên thiên
Bầu trời thấp xuống kia buồn bã
trong những giờ u ám
Và mỗi chúng ta sẽ sống sao trong
những năm cay đắng
Thế đấy
Nhưng tôi nhìn thấy một bầu
trời khác rồi khi ở giữa tay em.