Trên đường tìm lại sử cũ dân tộc chúng ta đang rất cần những tài liệu được viết một cách khách quan và khoa học mà lại đi vào những mặt tối những điểm yếu kém trong quá khứ. Sau đây là một bài viết như vậy. Bài trích từ nguồn https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/Viet-Nam-Lich-su-mot-dan-toc-“de-bi-ton-thuong”-12721 31/08/2018
-----------------
Dân
tộc nào cũng có điểm yếu. Nhiều người Việt ý thức rõ rằng dân tộc họ thường
xuyên chịu sự đe dọa bởi ngoại xâm, thiên tai, nội chiến… tuy nhiên chúng ta
chưa có những hiểu biết một cách có hệ thống rằng những biến động này ảnh hưởng
như thế nào đến sự ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam từ góc độ vĩ mô? Cha
ông trong quá khứ đã vượt qua những thử thách đó như thế nào? Điều này có thể
là tri thức hữu ích cho những người quản trị nhà nước hiện tại.
Ghi chép về cuộc tấn công, cướp bóc, đốt phá của Chiêm Thành vào Thăng Long năm 1371. Nguồn: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 7: 37a.
Mùa hè năm 1371, Thăng Long thêm một lần nữa bị đốt cháy bởi bàn tay của những người từ bên ngoài. Cuộc tập kích của người Chăm làm vua Trần phải bỏ chạy lánh nạn về phía Bắc. Trong kinh thành bỏ ngỏ, những kẻ xâm lược “đốt phá cung điện, cướp lấy con gái , ngọc lụa đem về.” Đây không phải là lần đầu tiên kinh đô của Đại Việt bị hủy hoại. Và đó chưa phải là lần cuối cùng. Hoàng Thành đã in “dấu giày” của không chỉ một đạo quân nước ngoài. Người Hán đã ở đấy, và cả người Nam Chiếu, người Champa, người Mông Cổ, người Pháp, người Nhật. Thăng Long còn bốc cháy bởi chính bàn tay của người Việt với tần suất nhiều không kém, từ những nhà sư nổi dậy, các hào trưởng chống lại triều đình, các thủ lĩnh nông dân, kiêu binh, các vị tướng nổi loạn, và tranh chấp triều đại. Mồi lửa của những thăng trầm biến động đó không chỉ chôn vùi Cửu Trùng Đài, mà còn cuốn theo vận mệnh của quốc gia trong nhiều cuộc khủng hoảng và sụp đổ.
Đây là câu chuyện về Việt Nam: một dân tộc “dễ bị tổn thương”. Câu chuyện này không nhằm phác thảo một Việt Nam yếu ớt, “chia rẽ”; không phải hạ thấp nỗ lực của bao thế hệ người Việt xây nên quốc gia hòa bình, thống nhất như ngày nay. Nó chỉ đơn giản chỉ ra rằng trong “tiếng hát 4000 năm” của Hồng Hà, Cửu Long, bên cạnh những lúc “Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc”, khi “Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc” và “Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”, là lúc người Việt tự tay đốt phá đền đài, cung điện,
những lúc vua Đại Việt bỏ chạy khỏi chính hoàng cung của mình
trước sức ép của kẻ ngoại xâm, là lúc hàng vạn người đói lưu tán từ vùng Hải
Dương, Thái Bình xuống phía nam châu thổ sông Hồng sau mỗi trận lụt, và có lúc
hàng triệu người bỏ mạng vì nạn đói.
Đương nhiên, nhiều thách thức trong số này
là bên ngoài mang lại, nhưng cũng không ít đến từ chính cách người Việt điều
hành quốc gia của mình.
Việt Nam là một dân tộc dễ bị “tổn thương”, “nhạy cảm” với sự thay
đổi địa chính trị, cấu trúc dân cư, lãnh thổ, biến động xã hội, và thiên tai.
Quản trị nhà nước ở Việt Nam chưa bao giờ là điều dễ dàng, dù người cầm quyền
xuất thân tướng lĩnh kiệt xuất như Lê Hoàn, Lí Công Uẩn, Nguyễn Huệ, là trí
thức uyên bác như Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Minh Mệnh.
Vì sao nhận thức điều đó lại quan trọng?
Dân tộc nào cũng có điểm yếu.
Nhiều người Việt ý thức rõ rằng dân tộc họ thường xuyên chịu sự đe
dọa bởi ngoại xâm, thiên tai, nội chiến… tuy nhiên chúng ta chưa có những hiểu
biết một cách có hệ thống rằng những biến động này ảnh hưởng như thế nào đến sự
ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam từ góc độ vĩ mô?
Cha ông trong quá khứ đã vượt qua những thử thách đó như thế nào?
Điều này có thể là tri thức hữu ích cho những người quản trị nhà nước hiện tại.
Việt Nam trong khung cảnh địa chính trị dễ bị tổn thương
Việt Nam có cấu trúc địa chính trị đặc thù: lãnh thổ hẹp, trải dài từ Bắc xuống
Nam. Chúng ta nói nhiều về lợi thế ôm lấy biển, cửa ngõ của Đông Nam Á, cửa ngõ
vào miền Nam Trung Quốc, giao điểm của tuyến đường tơ lụa trên biển, của các
luồng văn hóa, văn minh…
Nhưng không nên quên rằng vùng đất này là điểm đến của nhiều mưu
đồ chinh phục, cai trị, tìm cách ảnh hưởng của nước ngoài hay địa chỉ ưa thích
của các cơn bão, lụt lội, và dịch bệnh, là hạ nguồn của những hệ thống sông
lớn, nơi mà bất cứ sự thay đổi nào ở thượng nguồn cũng tiềm ẩn nguy cơ đối với
đời sống con người.
Phía Bắc là nơi ngự trị của một trong những đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử
nhân loại: Trung Hoa, “tồn tại” liên tục hơn 2000 năm qua (dĩ nhiên với thăng
trầm tộc người, triều đại). Hai thiên niên kỷ chung sống với một người láng
giềng như thế rõ ràng không phải là một trải nghiệm dễ chịu nếu nhìn vào số lần
bị xâm lược, sức ép kinh tế, chính trị, quân sự thường trực, nạn cướp biển từ
duyên hải Nam Trung Hoa, xâm nhập của thổ phỉ, phu mỏ từ Vân Nam, Quảng Tây,
buôn lậu lúa gạo từ đồng bằng Mekong cho đến khu vực đông bắc của châu thổ sông
Hồng.
Mở rộng lãnh thổ là
một thành tựu của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XV, quá trình này diễn ra quá
nhanh và không ổn định làm cho giới cầm quyền lúng túng trong việc quản trị
những phần lãnh thổ gia tăng này. Dân cư ở đó dịch chuyển liên tục, tương tác
tộc người phức tạp dẫn đến sự đa dạng vùng miền, đan xen cấu trúc kinh tế,
chính trị và văn hóa.
Biển giúp kết nối các nhóm cư dân trên lãnh thổ Việt Nam, thúc đẩy
quá trình di dân về phía Nam. Tuy nhiên biển cũng là nơi thường xuyên đưa lại
các mối đe dọa cho người Việt.
Bên cạnh thiên tai và dịch bệnh là cướp biển và các cuộc tấn công
đường thủy. Chiến thuật truyền thống của người Việt là dùng thuyền nhỏ, cơ động
linh hoạt, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của kẻ thù đối với địa hình phức tạp để
mai phục tấn công các hạm thuyền lớn.
Chiến thuật này đã thành công trên sông Bạch Đằng. Nguyễn Huệ đã
áp dụng nó trên một khúc sông có nhiều cù lao và các ngã rẽ năm 1785. Thủy quân
Đàng Trong đã đốt cháy các tàu chiến lớn của người Hà Lan năm 1643 (Hoang Anh
Tuan 2007). Tuy nhiên trong nhiều thế kỷ, người Việt phải vất vả đối phó với
người Champa với các thuyền nhỏ và kỹ thuật hàng hải thiện nghệ hơn.
Ngày nay, cướp biển có vẻ xa lạ với người Việt. Tuy nhiên giữa các thế kỷ
XVI-XIX, đó là nỗi ám ảnh của miền duyên hải.
Một nhánh của cướp biển Nhật Bản từng tấn công Đàng Trong vào cuối
thế kỷ XVI. Thế kỷ XVIII-XIX, quy mô của mạng lưới cướp biển gia tăng nhanh ở
vùng vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Ngay cả triều Tây Sơn cũng phải duy trì mối
liên hệ với các nhóm này (Dian Murray 1987).
Các vùng thường xuyên bị cướp phá là từ Nam Định đến Móng Cái,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tiên, và Phú Quốc. Giang Bình, một địa điểm trên lãnh
thổ Việt Nam đến tận năm 1885 (ngày nay cách Móng Cái 20 km), là một thiên
đường cướp biển như thế, nơi làm cho Càn Long, Gia Khánh đau đầu vì cung cấp
căn cứ cho nhiều nhóm quân sự trong vịnh Bắc Bộ (Robert Antony 2010: 34).
Giữa thế kỉ 16-19, cướp biển là nỗi ám ảnh của miền duyên hải Việt
Nam. Trong ảnh (bìa phải) là nữ tướng cướp biển khét tiếng mọi thời đại Ching
Shih, với địa bàn hoạt động bao gồm cả biển Đông, làm đau đầu triêu đại nhà
Thanh.
Dọc theo hành lang phía Tây, kéo dài hàng nghìn km là hệ thống địa
hình phức tạp, đa dạng tộc người, tôn giáo, ngôn ngữ.
Trên hành lang này, lịch sử cho thấy nhà nước và xã hội của người
Việt phải đối mặt với nhiều thách thức. Hà Nội và vùng châu thổ sông Hồng nhiều
lần bị đe dọa từ phía Bắc, Tây bắc, Tây nam.
Ít nhất có hai lần các đạo quân Nam Chiếu và Mông Cổ đi dọc theo
hệ thống sông Đà và sông Lô để đánh chiếm Đại La/ Thăng Long. Cuộc tấn công ở
thế kỷ IX đã phá hủy hoàn toàn hệ thống phòng thủ của nhà Đường, buộc Cao Biền
phải xây đê hộ thành Đại La kiên cố (Keith Taylor 1983).
Hành lang biên giới Việt-Trung từng là con đường giao thương quan trọng kéo dài
tận phía bắc Lào và Myanmar với hệ thống trao đổi bạc, đá quý, ngựa, trà, muối,
đồ sắt… Vào thế kỷ XVIII-XIX, đó là thiên đường của các nhóm di cư, thổ phỉ, và
bạo lực xã hội.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII, hàng trăm nghìn phu mỏ người Hán
tràn vào thượng du Bắc Kỳ (riêng mỏ đồng Tụ Long đã có 100,000 người, theo Lê
Quý Đôn, Kiến Văn Tiểu Lục).
Họ là một phần của hàng triệu người di cư dọc theo Quảng Tây, Vân
Nam vào cuối thời Thanh. Ảnh hưởng xã hội của họ còn kéo dài cả thế kỷ sau đó
khi Nông Văn Vân nổi dậy chống nhà Nguyễn, tập hợp hàng nghìn thợ mỏ người Hoa,
và có ý đồ đánh chiếm xuống vùng châu thổ phía Nam với các cuộc tấn công Thái
Nguyên và Hưng Hóa.
Vào cuối thế kỷ XIX, khu vực này một lần nữa bị xáo trộn bởi hàng
vạn tàn quân Thái Bình Thiên Quốc, những người sẽ làm cho quan lại nhà Thanh,
triều đình Huế, người Pháp, người Lào, người Thái “mất ăn mất ngủ” (Bradley
Davis 2017).
Nguy cơ xung đột cũng đến từ miền thượng du Thanh Hóa, Ninh Bình, Hưng Hóa. Các
tù trưởng người Lào (và các nhóm cư dân nói tiếng Thái) thường xuyên trong quan
hệ căng thẳng với nhà Lê. Cũng tại đây vào những năm 1816-1836, các nhóm ủng hộ
hậu duệ của nhà Lê liên minh với các thủ lĩnh Thái, Mường; muốn làm chủ một dải
trung du bao quanh châu thổ sông Hồng, sau đó xâm nhập vào từ phía Tây và Tây
nam dọc theo sông Đà và vùng thung lũng bắc Ninh Bình (1833-1836).
Tại những cửa ngõ của khu vực có địa hình phức tạp này, trong những năm
1950-1952, các đạo quân của tướng Võ Nguyên Giáp đã triển khai tấn công quân
Pháp dọc theo sông Lô, Hòa Bình, Hà-Nam-Ninh, Vĩnh Yên-Phúc Yên.
Nếu như châu thổ sông Hồng bị “đe dọa” bởi các vùng núi và trung du bao quanh
thì châu thổ Mekong có những điểm yếu của riêng nó. Đường bộ nối thành phố Hồ
Chí Minh với Phnom Penh chưa đến 250 km (5-6 giờ lái xe), và một không gian
vùng biên không có chướng ngại tự nhiên. Quân Khmer từng tổ chức đánh chiếm Hà
Tiên vào thế kỷ XVIII (Trương Minh Đạt 2008). Đó cũng là điều họ làm vào năm
1979. Quân Siam hơn một lần chiếm Hà Tiên, hai lần xâm lược hạ lưu Mekong. Cuộc
xâm lược năm 1834 là một nỗ lực lớn của Bangkok với năm cánh quân, hướng trọng
tâm vào các tuyến thủy-bộ dọc theo sông Mekong và vịnh Thái Lan. Ý đồ của họ là
lấp kênh Vĩnh Tế, chia cắt hệ thống liên lạc, vận tải quân sự của người Việt
nhằm kiểm soát vùng hạ lưu ngập lụt này.
Bờ Tây sông Hậu kéo dài đến Kampot, Kompong (Cambodia), và Trat (Thái Lan) là
một ví dụ khác của những vùng đất mới vượt ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước.
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX, nơi đây là thiên đường của dân di cư
bất hợp pháp, buôn lậu lúa gạo, cướp biển, các hội kín và tổ chức bạo lực người
Việt, người Hoa, Khmer… (Thomas Engelbert 2007). Một cách hình ảnh thì đây
chính là một “Miền Tây” của lịch sử Việt Nam (như “Miền Tây”trong khung cảnh
lịch sử Hoa Kỳ).
Vấn đề quản trị lãnh thổ
Lãnh thổ hình chữ “S” xinh đẹp của Việt Nam là một không gian không dễ điều
phối. Lấy năm 1975 làm ví dụ. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa có trong tay cả
triệu quân, yểm trợ bằng không quân, nhưng họ lúng túng trong việc đánh-giữ-rút
giữa ba vùng: duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ. Bất cứ động
thái quân sự nào diễn ra ở ba khu vực này đều có nguy cơ đặt Sài Gòn vào thử
thách lớn. Chỉ một dấu hiệu đe dọa Tây Nguyên cũng làm cho cả hệ thống phòng
thủ hàng trăm km ở miền duyên hải mất tinh thần. Họ bị động ứng phó, ra quyết
định rút quân chiến lược, dù còn những kho vũ khí lớn ở vùng duyên hải. Một nỗi
lo sợ như thế chắc chắn cũng đã đến với tướng Tassigny và cấp dưới của ông, tư
lệnh quân Pháp tại Bắc Bộ Raoul Salan khi châu thổ sông Hồng bị tấn công từ ba
phía (1950-1951). Nếu ông ta để mất bất cứ một cửa ngõ nào vào tay tướng Giáp,
toàn bộ hệ thống thực dân trong vùng sẽ bị lung lay.
Xuôi về phía Nam, hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh cho thấy hành lang phía Tây có
tầm quan trọng chiến lược đặc biệt đối với an ninh của toàn bộ Việt Nam. Dọc
theo sông Mekong, quân Siam từng tổ chức các cuộc xâm lược vào Nghệ An và Hưng
Hóa (1834). Chính trên vùng cao nguyên Trường Sơn, bảy năm trước, Huế đã phải
một phen “mất ngủ” khi Siam xâm lược Vientiane (1827), và “san phẳng” toàn bộ
kinh thành này theo lệnh của vua Rama III (Mayoury and Pheuiphanh Ngaosyvathn
1998). Ngay lập tức Minh Mệnh phải điều các đạo binh, voi đến Nghệ An. Tuy
nhiên đó chưa phải là lần cuối. Người Thái đã trở lại vào những năm 1890 và 1940.
Bản tấu của đình thần Huế ngày 17/08/1826, về việc đón tiếp sứ
đoàn Siam. Nguồn: Châu bản triều Minh Mệnh, 8: 184-86.
Không phải đến Minh Mệnh mà gần bốn thế kỷ trước, người Việt đã
tìm cách chinh phục vùng đất phía tây này nhằm giữ vững an ninh cho vương quốc
của mình. Lê Thánh Tông trong một cuộc viễn chinh chưa từng có tiền lệ đã đưa
quân sang tận vùng đất được cho là Myanmar ngày nay. Tuy nhiên cuộc hành quân
cũng chỉ ra giới hạn của người Việt trong việc mở rộng ảnh hưởng qua bên kia
dãy Trường Sơn (John Whitmore 2004). Sau đó là các chúa Trịnh, Tây Sơn cũng đều
có những nỗ lực tương tự nhưng không thành công.
“Thất bại” của người Việt trong việc duy trì ảnh hưởng ở Lào và Cambodia biến
hai khu vực này thành vấn đề an ninh thường trực từ thế kỷ XVIII. Trung tâm
điểm của tương tác này là cuộc cạnh tranh với Thái Lan. Xét về tương quan quân
sự, Việt Nam không hề thua kém, thậm chí còn có ưu thế về dân số và tổ chức
quân đội. Nhưng người Thái có lợi thế địa hình, dễ dàng xâm nhập vào Lào hay
Cambodia. Việt Nam có thể áp đảo trong các chiến dịch tạm thời, tuy nhiên duy
trì quân đội và hệ thống tiếp tế liên tục trong thời gian dài trên những địa
hình phức tạp là điểm yếu của chúng ta.
Hành lang dài, hẹp ở miền Trung là một “điểm yếu” quan trọng khác của Việt Nam.
Nó là cái bẫy đối với nhiều triều đại trong việc lựa chọn vùng đóng đô và tổ
chức mạng lưới quân sự. Nguyễn Hoàng gặp vấn đề này khi ông dịch chuyển dinh
trấn liên tục dọc theo các cửa sông bị núi chia cắt. Nguyễn Huệ gặp vấn đề
nghiêm trọng hơn khi buộc phải lựa chọn Phú Xuân, Nghệ An, hay Thăng Long. Việc
ông chọn Nghệ An, dường như là một quyết định đơn thuần mang ý nghĩa khoảng
cách địa lý hơn là một tính toán chiến lược kỹ lưỡng.
Gia Long có lí do “chính đáng” khi chọn kinh đô của tổ tiên làm kinh đô của
nước Việt Nam thống nhất trải dài hơn 2000 km từ Cao Bằng đến Hà Tiên. Cách Hà
Nội 700 km và Sài Gòn 900 km, Huế có thể nhận được báo cáo khẩn từ Hà Nội sau 4
ngày 6 giờ, từ Hà Tiên sau 12 ngày 6 giờ (1836). Có hai điểm yếu làm giảm khả năng
cơ động của Huế trong việc cai trị Việt Nam. Thứ nhất, Huế là một đô thị nhỏ
hẹp. Sông Hương và các cửa biển xung quanh nông, thường xuyên bị cát bồi. Đó
không phải là một nơi lí tưởng cho các hải cảng, tập hợp quân sự, trung chuyển
hàng hóa. Thứ hai, người cầm quyền gặp khó khăn khi điều hành nền chính trị từ
Huế, đặc biệt là việc quản lí hai đồng bằng đông dân và thịnh vượng ở châu thổ
sông Hồng và Mekong. Thực tế là vương triều này tiêu tốn quá nhiều nhân lực vào
việc vận chuyển lương thực từ Gia Định đến Huế, và sau đó là ra Nam Định để
cung cấp cho binh lính, trả lương cho quan lại, và cứu trợ. Vào đầu thế
kỷ XIX, hằng năm, hàng vạn người và khoảng 650 chiếc thuyền đã tham gia vào hệ
thống này, tiêu tốn một phần lớn sức lực, ngân sách.
Mở rộng lãnh thổ là một thành tựu của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XV, quá trình
này diễn ra quá nhanh và không ổn định làm cho giới cầm quyền lúng túng trong
việc quản trị những phần lãnh thổ gia tăng này. Dân cư ở đó dịch chuyển liên
tục, tương tác tộc người phức tạp dẫn đến sự đa dạng vùng miền, đan xen cấu
trúc kinh tế, chính trị và văn hóa. Các cuộc nội chiến liên tục từ 1533 đến năm
1802, và sau đó là nổi loạn của dân chúng có vẻ như là hệ quả của diễn trình
lãnh thổ, dân cư và dịch chuyển cấu trúc quyền lực này.
Việt Nam dễ bị tổn thương bởi thiên tai, dịch bệnh
Hai trận dịch đầu thế kỷ XIX là một thảm họa đối với Việt Nam. Nó cho thấy cách
thức xã hội này cực kỳ dễ bị “lây nhiễm” bởi các dịch bệnh “quốc tế”. Thống kê
của nhà Nguyễn vào năm 1820 cho thấy 206,835 người chết. Trận dịch thứ hai vào
các năm 1839-1840 với hậu quả được báo cáo về Huế một cách không đầy đủ:
Số
người chết tại các địa phương trong trận dịch 1839-1840 (Đơn
vị: người) |
||||||
Năm |
Thanh Hóa |
Bắc Ninh |
Hải Dương |
Hưng Yên |
Nam Định |
Sơn Tây |
1839 |
|
21,500 |
23, 000 |
|
|
|
1840 |
2, 000 |
|
|
3, 000 |
200 |
4, 900 |
Nguồn: Đại Nam Thực Lục.
Thiên tai là vấn nạn thường xuyên đe dọa sự ổn định kinh tế và xã
hội Việt Nam trong lịch sử. Nền kinh tế dựa trên sản xuất nông nghiệp. Ổn định
xã hội dựa trên việc nhà nước tổ chức cuộc sống cho đại đa số nông dân và giữ
cho làng xã yên bình. Mỗi khi nước sông Hồng tràn bờ là lúc xuất hiện dòng dân
cư lưu tán. Nổi dậy của dân đói và dân bị quan lại địa phương áp bức luôn là
vấn đề thường trực nếu nhà nước không sẵn sàng ứng phó. Lưu ý rằng sự yếu kém
của quan lại địa phương, nạn cường hào là nguyên nhân chính, trực tiếp dẫn đến
phản kháng của nông dân, đặc biệt là trong những điều kiện bất lợi về kinh tế.
Cuộc nổi dậy lớn nhất ở vùng châu thổ vào đầu thế kỷ XIX của Phan Bá Vành là hệ
quả của nạn lụt và đói từ 1824 đến 1826 ở vùng “rốn lũ” của châu thổ: Hải
Dương, Thái Bình. Dân chúng bắt đầu kéo sang Nam Định và tràn xuống vùng duyên
hải phía nam, nơi họ tập hợp lại và dùng bạo lực chống lại hệ thống điều hành
chính trị yếu kém và tư pháp tham nhũng (Vu Duc Liem, Village rebellion).
Không phải nhà Nguyễn ghẻ lạnh các con đê, bỏ mặc dân chúng. Trong vòng 26 năm
thời Gia Long và Minh Mệnh (1802-1829), triều đại này đắp mới 144.5 km trong
tổng số 952 km đê chính ở Bắc Bộ. Bất chấp những nỗ lực đó, từ 1803 đến 1861,
cả vùng hứng chịu 27 trận lụt lớn (Tessier Olivier 2011). Với tần suất hai năm
một trận lụt, tỉ lệ này là gần như cao nhất trong gần 1000 năm từ khi người
Việt “tiếp quản” vùng châu thổ ở thế kỷ X, đồng thời là nguyên nhân của ít nhất
47 cuộc nổi dậy đầu thế kỷ XIX. Đây là một bài học lớn về quản trị nhà nước ở
đồng bằng sông Hồng cũng như cho những thách thức tự nhiên Việt Nam đã và đang
đối mặt: biến đổi khí hậu, nước biển dâng, nhiễm mặn, mất rừng, đặc biệt là
nguy cơ “xóa sổ” vùng châu thổ Mekong trong một thế kỷ tới do khoảng 20 con đập
đã và đang được xây dựng trên dòng sông chính.
Cuối cùng, việc viết những điều này không nhằm phủ nhận sự trường tồn, sức sống
dẻo dai, và tinh thần quật cường của người Việt trong hàng nghìn năm qua. Bao
nhiêu thế hệ đã ngã xuống để có được một hình hài dân tộc thống nhất. Bao thế
hệ đã cùng nhau đoàn kết chống lại ngoại xâm, thiên tai, nội chiến để củng cố
độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ cuộc sống yên bình của người Việt. Viết
điều này cũng không phải nói rằng người Việt lúc nào cũng là “nạn nhân” của
lịch sử, của hoàn cảnh, của người bên ngoài. Chúng ta không quên lịch sử mở
rộng lãnh thổ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX. Điều quan trọng ở đây là đa dạng
hóa cách tiếp cận lịch sử Việt Nam và thêm vào đó một nhận thức rằng: bên cạnh
một lịch sử quật khởi, dân tộc này có những lúc “yếu đuối” và dễ bị tổn thương.
Người Việt cần biết rõ điểm yếu của mình, đặc biệt là từ góc độ quản trị nhà
nước, điều hành quốc gia nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, và để không ai bị
bỏ rơi từ quá trình phát triển này.
------
Tham khảo
Bradley Davis. Imperial Bandits: Outlaws and Rebels in the China-Vietnam
Borderlands (University of Washington Press, 2017).
Keith Taylor. The birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press,
1983).
Olivier Tessier, “Outline of the Process of Red River Hydraulics Development
During the Nguyễn Dynasty (Nineteenth Century),” in Environmental Change and
Agricultural Sustainability in the Mekong Delta, ed. Mart A. Stewart and Peter
A. Coclanis (Springer, 2011), 45–68.
Thomas Engelbert. “Go West” in Cochinchina. Chinese and Vietnamese Illicit
Activities in the Transbassac (c. 1860-1920s). 南方華裔研究雜誌, 第一卷, 2007: 56-82.
Vũ Đường Luân, “Contested Sovereignty: Local Politics and State Power in
Territorial Conflicts on the Vietnam-China Border, 1650s–1880s,”
Cross-Currents: East Asian History and Culture Review 5, no. 2 (2016): 497–533.
Vu Duc Liem. “The Age of Sea Falcons: Naval Warfare in Vietnam, 1771-1802,” in
Warring Societies of Pre-Colonial Southeast Asia: Local Cultures of Conflict
Within a Regional Context, ed. Kathryn Wellen and Michael Charney (Copenhagen:
Nordic Institute of Asian Studies, 2017), pp. 103-129.
Vu Duc Liem. Village rebellion and social violence in early nineteenth century
Vietnam, in A Violent World? A Global History of Early Modern Violence and its
Restraint, eds., Erica Charters, Marie Houllemare, and Peter Wilson (Manchester
University Press, sắp xuất bản).
Tom Fawthrop. Killing the Mekong, Dam by Dam,
https://thediplomat.com/2016/11/killing-the-mekong-dam-by-dam/