Vì sách sưu tầm đã lâu,
khi ấy tôi không có điều kiện chụp lại bản gốc
mà chỉ có bản photocopy rồi giữ trong đống tài liệu.
Hôm nay, khi nhờ được người đánh máy lại
bản đã chụp ở thư viện Khoa học xã hội
thì lại không đủ sức khỏe sửa chữa hết các lỗi đánh máy
và đưa ra những ghi chú cần thiết,
mong được các bạn tha thứ.
mong được các bạn tha thứ.
Chỉ xin nói thêm là cách viết hoa và cách viết tên riêng ở đây
đều dựa vào lối riêng của tác giả hồi 1950.
Các chỗ để trống do người đánh máy không đoán ra chữ trong bản photocopy
đều dựa vào lối riêng của tác giả hồi 1950.
Các chỗ để trống do người đánh máy không đoán ra chữ trong bản photocopy
V.SỰ PHÁT TRIỂN VỀ SINH HOẠT TINH THẦN
NHO GIÁO – Sau
những bước chập chững lần mò trên con đường tự chủ trải qua các triều Ngô,
Đinh, Lê, giai cấp quí tộc địa chủ đã nhận thấy rằng trong công việc kinh bang
tế thế, nghĩa là việc kiến thiết quốc gia và xã hội, nho giáo đắc lực hơn phật
giáo. Bởi thế, tuy từ thời Bắc thuộc sang các thời Ngô, Đinh, Lê, phật giáo rất
thịnh hành, mà các vua triều Lý, đều là đệ tử chí thành của Phật, ngay buổi đầu
thời Lý, nhà vua đã theo gương nhà Tống ở Trung quốc mà lấy nho giáo làm quốc
giáo. Năm 1070, Lý Thánh tôn sai dựng nhà Văn miếu ở phía nam thành Thăng long
(tức Văn miếu Hà nội ngày nay), tô
tượng Chu công, Khổng tử và tứ phối, và vẽ tượng thất thập nhị hiền để thờ
phụng. Nhà vua lại cho Hoàng Thái tử đến đó để học tập đạo nho. Sáu năm sau,
năm 1075, Lý Nhân tôn mở khoa thi đầu tiên, để chọn những người minh kinh bác
học (học rộng thông hiểu kinh truyện)
bổ làm quan. Khoa thi ấy mở đầu cho chế độ khoa cử dụng nhân. Lê văn Thịnh là
khôi nguyên được dùng là Thị học (chầu
học ở trong cung vua), về sau làm lên đến chức Thái sư. Bấy giờ sự học ở
thiền môn còn thịnh, mà nhà nước thì chưa mở trường học công, phàm người nho
học đều là tự học và truyền dạy riêng nhau. Bắt đầu từ năm 1076, nhà vua mời
lập nhà học Quốc tử giám ở bên Văn miếu, chọn các quan giỏi văn học làm thầy để
dạy con cháu các nhà quí tộc và quan lại. Năm 1085, lại mở khoa thi chọn người
văn học bổ vào Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích đậu đầu, được bổ Hàn lâm học sĩ. Từ
đó về sau khi nào cần người nhà vua lại mở khoa thi, nhưng khoa cử chưa có định
lệ.
Cuối thời Lý sang thời Trần, nho học đã phát đạt hơn
trước, cho nên ngay đời Trần Thái tôn, năm 1232, nhà vua đã mở khoa thi Thái
học sinh, trình độ cao hơn khoa cử thời Lý, chia ra ba giáp để phân biệt đẳng
đệ. Đến năm 1247, trong khoa Thái học sinh lại đặt tam khôi: Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám hoa, để thêm danh vọng cho các bậc khoa giáp. Ở bậc dưới thì thỉnh
thoảng nhà vua lại mở khoa thi nho sinh.
Năm 1154, Thái tôn lại mở thêm nhà Quốc học viện, và
hạ chiếu triệu các nhà học giả trong nước bổ vào viện để giảng ngũ kinh tứ thư.
Lại lập Giảng võ đường để dạy võ kinh và võ nghệ.
Ngoài Quốc tử giám và Quốc học viện, trong nước bấy
giờ còn có nhiều trường tư do các vị danh nho tự mở. Trần Ích Tắc là một vị
hoàng đệ, có tiếng về văn học, cũng mở trường giảng học, lại cấp ăn mặc cho
sinh viên để khuyến khích và giúp đỡ người nghèo.
Trải qua sự săn sóc của các vua Thái tôn, Thánh tôn và
Nhân tôn, nho học ở thời Trần đã đạt đến mực cực thịnh. Các nhà nho học có
tiếng ở thời Trần, như Lê văn Hưu, làm Hàn lâm học sĩ kiêm quốc sử viện Giám
tu, tác giả bộ Việt sử đầu tiên của nước ta, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn,
Trương Hán Siêu nhất là Chu An, tác giả sách TỨ THƯ THUYẾT ƯỚC và THẤT TRẢM SỚ,
đời sau vẫn xem là các vị sư nho bực nhất.
Trải qua cuộc tàn phá của quân Minh trong hơn hai chục
năm, nền giáo dục suy đồi, nhưng đầu thời Lê, nho học vẫn nhờ được cái dư ba
của thời Trần mà không đến nỗi tiêu điều lắm. Đến đời Thánh tôn thì việc học đã
thịnh lại, nhưng từ đó, nhà Lê lấy khoa cử làm con đường dụng nhân duy nhất,
lấy văn chương bát cổ làm mực thước để đo nhân tài, và lấy sách Tống nho do nhà
Minh truyền sang làm chính thư thay cho các sách cổ văn và sách Hán nho Đường
nho. Trừ ra một số rất ít người lỗi lạc như Lê Quí Đôn, các nhà danh nho thời
Lê và thời Nguyễn phần nhiều chỉ là những người giỏi từ chương, khéo dùng lời
văn bóng bẩy mà lặp lại những tư tưởng của Chu Trình, chứ không sáng tác được
gì cả.
PHẬT GIÁO - Ở
thời Lý Trần, sự hưng thịnh của nho học vẫn không làm cho thế lực của Phật giáo
phải lùi. Vua sáng nghiệp nhà Lý khi nhỏ sống ở nhà chùa, nên người rất sùng Phật
giáo. Khi lên làm vua, người sai làm chùa rất nhiều, trong cung thì xây một
ngôi chùa riêng, chùa Châu giáo, làm nơi cho vua và hoàng gia sùng bái tu hành.
Năm 1018 người sai sứ sang Trung quốc cầu kinh Tam tạng, đem về cất ở kho Đại
hưng. Cũng năm ấy người mở trường chay ở chùa Vạn tuế để phổ độ nhân dân, và
xuất tiền kho để đúc chuông lớn cho các chùa ở kinh đô. Các vua đời sau cũng
rất săn sóc việc xây chùa dựng tháp, tô tượng đúc chuông, mỗi lần công việc lạc
thành thì lập trai trường để phổ độ chúng sinh và gia ân đại xá cho thiên hạ.
Năm 1088, Lý Nhân tôn làm chùa Lãm sơn ở Bắc ninh xong
thì hạ chiếu định đẳng cấp các chùa trong nước, chia làm ba hạng danh lam, đại,
trung và tiểu, có điền nô để cày tự điền và khố vật để cung vào việc tế tự. Năm
sau lại tôn thầy tăng Khô đầu hiệu làm Quốc sư. Các vua đời sau thường theo lệ
ấy mà đặt chức Quốc sư để tỏ lòng mộ đạo.
Ở thời Lý, các vị cao tăng có tiếng là Viên chiếu
thiền sư, có sách DƯỢC SƯ THẬP NHỊ NGUYỆN VĂN, trong ấy bàn giải về mười hai
điều đại nguyện trong KINH DƯỢC SƯ, chủ trương điều hòa tư tưởng siêu việt và
tư tưởng hiện thế. Ngô ấn thiền sư chủ trương thuyết TAM BAN, lấy thân = Phật,
khẩu = Pháp, tâm = Thiền làm gốc của đạo. Nhưng nửa thời Lý thì Phật giáo đã
bắt đầu có vẻ pha lẫn đạo giáo, nên mới có những vị thiền sư như Từ Đạo Hạnh có
tiếng là sở trường về phù chú.
Thời Trần, các vua cũng rất sùng Phật, Trần Thái tôn
làm vua ít lâu, vì không chịu được sự ức chế của Trần Thủ Độ, đã muốn bỏ ngôi
đi tu ở chùa Phù vân trên núi Yên tử. Năm 1231, người sai tô tượng Phật bày ở
các nhà trạm dịch ở dọc đường để thờ. Khi về già, người truyền ngôi cho Thái
tử, tự mình làm Thái thượng hoàng, rồi về ở chùa Thiên trường (Tức mạc) để tu.
Nhân tôn khi làm Thượng hoàng cũng tu hành rất thành,
đã được tôn là Trúc lâm đệ nhất tổ (giáo
hoàng) và đã làm sách KHÓA HƯ và sách THIỀN
TÔN CHỈ NAM. Hai vị tổ khác của thiền tôn ở thời Trần là Pháp loa đệ nhị tổ,
tác giả sách THAM THIỀN YẾU CHỈ và Huyền Quang đệ tam tổ, đều là những nhà phật
học có tiếng đương thời.
Từ đời Trần Anh tôn thì phật giáo lại cũng tham tạp đạo giáo. Bấy giờ
tuồng như còn nhiều thầy tu Tây tạng đem phép phù chú của Lạt ma giáo truyền
vào. Từ đó Phật giáo suy dần.
Sang thời Lê, vì nhà vua không chuộng Phật, nên Phật
giáo lại suy thêm. Ngay từ cuối thời Trần, từ khi Quí Ly chuyên quyền, nhất là
sau cuộc khởi loạn của nhà sư Phạm Sư Ôn, thì Phật giáo đã bị ức chế. Ở thời Lê
thì việc tu hành Phật giáo chỉ là việc riêng của dân gian. Thỉnh thoảng Nhà
nước vẫn mở khoa thi tăng đạo để chọn những người thông kinh phật mới cho tu
hành. Nhưng ở chùa chiền sự học tập tu luyện càng ngày càng suy, mà số người
hèn hạ trốn việc quan đi ở chùa càng ngày càng nhiều. Đến thời Lê mạt thì đại
khái làng nào cũng có chùa mà đại khái những người tu hành đều là người ngu
dốt, đến nỗi ở thời Tây sơn, vua Quang Trung phải hạ chiếu bắt bỏ hết cả những
chùa nhỏ ở các làng, chỉ cho làm ở mỗi phủ, mỗi huyện một cái chùa to đẹp, và
chọn những tăng nhân có học thức đạo hạnh cho coi chùa, còn bao nhiêu người dốt
nát thì bắt hoàn tục cả.
ĐẠO GIÁO – Chúng
ta đã biết rằng đạo giáo từ Trung quốc truyền sang nước ta thì gặp được miếng
đất mê tín của ta mà phát triển và ảnh hưởng vào tín ngưỡng và phong tục của ta
còn nhiều hơn Nho giáo và Phật giáo. Đại khái những phong tục, những mê tín,
những phương thuật chúng ta vẫn còn thấy lưu hành trong dân gian, trong những
dịp sinh đẻ, tật bịnh, tang ma, những phép tế tự quỉ thần, những phép phù thủy,
những thuật phong thủy, bốc phệ, số tướng, cùng các phép chiêm đoán, đều là
chịu ảnh hưởng của đạo giáo rất nhiều. Những chi tiết ấy không thể nào kể xiết.
VĂN HỌC – Từ
thời Bắc thuộc về trước, văn học nước ta chỉ là văn học truyền khẩu, gồm những
ca dao tục ngữ lưu hành ở trong dân gian. Văn chương thành văn đầu tiên là văn
chương chữ Hán, đến thời Tự chủ mới thấy xuất hiện. Nhưng trong thời Đinh, Lê
và Lý, hiện chỉ còn lưu lại cho ta có mấy bài thi ca của các vị thiền sư như
bài ca của thiền sư Đô Thuận thời Lê làm tặng biệt Tống sứ, cùng những bài thơ
của hai mươi vị thiền sư thời Lý, như Vạn Hạnh, Huệ Minh v.v... Ngoài thi ca
của các vị thiền sư, còn lưu lại được ít bài của các vua Lý Thái tôn và Lý Nhân
tôn và của Đoàn văn Khâm là một vị Thượng thư ở đời Nhân tôn, nhưng thi ca của
các nhà ấy cũng đều nói về phật lý.
Văn học trong nho môn ở thời Lý là thời đã có nhiều
nhà nho học có tiếng, tất cũng không phải là vắng hẳn. Sở dĩ thất truyền là vì
ở trong giới thông tục, trải qua bao nhiêu tai biến, người ta không có được
những điều kiện bảo tồn như trong thiền môn.
Văn học ở thời Trần còn lại đến nay cũng phần nhiều là
thi văn của các vị thiền sư, trong ấy có sách KHÓA HƯ của Trần Nhân tôn là một
tác phẩm rất quan trọng về tư tưởng phật học. Trong nho môn thì còn truyền lại
bài HỊCH TƯỚNG SĨ của Hưng Đạo vương, bài phú NGỌC TỈNH LIÊN của Mạc Đĩnh Chi,
mấy bài thi ca, bi ký của các danh nho như : Chu An, Nguyễn Trung Ngạn. Ở một
thời nho học rất thịnh, không lẽ văn học chỉ có như thế. Sách LỊCH TRIỀU HIẾN
CHƯƠNG LOẠI CHÍ còn ghi lại tên rất nhiều tác phẩm hiện nay không còn vì bị
quân nhà Minh thu cả đem về Trung hoa để hủy đi, chỉ xin lược kể một số ít như
:
DI HẬU LỤC của Trần Thánh tôn.
THỦY VÂN TÙY BÚT của Trần Anh tôn.
TRIỀU ẨN TẬP của Chu An.
LẠC ĐẠO TẬP của Trần Quang Khải.
BĂNG HỒ NGỌC HÁT TẬP của Trần Nguyên Đán.
TỨ THƯ THUYẾT ƯỚC của Chu An.
GIỚI HIÊN THI TẬP của Nguyễn Trung Ngạn.
HIỆP THẠCH TẬP của Phạm Sư Mạnh.
NHỤY KHÊ THI TẬP của Nguyễn Phi Khanh.
Về sử học thì có bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của Lê văn Hưu gồm
30 quyển, tuy không còn truyền bản, nhưng các sử thần đời sau sao tập, vẫn còn
giữ được dấu vết trong các sách chính sử của thời Lê và thời Nguyễn.
Văn học thời Lê và thời Nguyễn thì còn giữ lại tương
đối được nhiều hơn. Chúng ta nên kể ỨC TRAI TOÀN TẬP của Nguyễn Trãi, QUỲNH
UYỂN CỬU CA của Lê Thánh tôn, THIÊN NAM DƯ HẠ TẬP của Thân Nhân Trung và Đỗ
Nhuận (chỉ còn lại một phần nhỏ), ĐẠI
VIỆT SỬ KÝ của Ngô Sĩ Liên, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của Phạm Công Trứ, BẠCH VÂN
THI TẬP của Nguyễn Bỉnh Khiêm, TRUYỀN KỲ MẠN LỤC của Nguyễn Dữ, VIỆT SỬ TIÊU ÁN
của Ngô Thời Sĩ. Ở thời Lê mạt, Lê Quí Đôn là một nhà bác học nổi tiếng cả ở
Trung hoa, trước thuật đến hơn ba chục bộ sách về nho học, lão học, phật học,
sử học, binh học, cùng là thi văn tạp bút tựu trung có tiếng nhất là các bộ VẮN
ĐÀI LOẠI NGỮ, KIẾN VĂN TIỂU LỤC, QUẦN THƯ KHẢO BIỆN, ĐẠI VIỆT THÔNG SỬ, PHỦ
BIÊN TẠP LỤC.
Ở thời Nguyễn thì có các thi sĩ Nguyễn Du, Lý văn
Phức, Tùng thiện vương, Tuy lý vương, Cao Bá Quát, cùng các văn gia Phạm Đình
Hổ với bộ VŨ TRUNG TÙY BÚT, HI KINH TRÁC LÃI, Phan Huy Chú với bộ LỊCH TRIỀU
HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Nguyễn văn Siêu với bộ PHƯƠNG ĐÌNH TOÀN TẬP, Phan Thanh
Giản với bộ LƯƠNG KHÊ TẬP, Nguyễn Đức Đạt với bộ KHẢO CỔ ỨC THUYẾT vân vân.
Văn học viết bằng Việt ngữ thì mãi đến thời Trần mới
xuất hiện, nhưng các văn phẩm buổi đầu về thời ấy đã thất truyền. Hiện nay, chỉ
truyền những tác phẩm từ thời Lê trở xuống. Về đời Hồng đức thì có HỒNG ĐỨC
QUỐC ÂM THI TẬP, về đời Mạc Đăng Dung thì có BẠCH VÂN THI TẬP của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Về thời Lê mạt thì có nhiều tác phẩm có giá trị lớn, như CHINH PHỤ NGÂM
của Đoàn thị Điểm, CUNG OÁN NGÂM của Nguyễn gia Thiều, HOA TIÊN NGUYỆT của
Nguyễn huy Tự. Hồ xuân Hương là một nhà nữ thi sĩ thiên tài cũng xuất hiện ở
cuối thời ấy.
Về thời Nguyễn sơ thì có Nguyễn Du với sách ĐOẠN
TRƯỜNG TÂN THANH là một kiệt tác không tiền tuyệt hậu. Chúng ta nên kể thêm
Đặng Đức Siêu, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến và Bà Huyện Thanh
Quan là những nhà thi sĩ bằng Việt văn rất lỗi lạc.
NGHỆ THUẬT - Ở
thời Lý Trần, các nhà vua rất hay xây cung điện chùa chiền, nhân thế bỏ mà xúc
tiến cho thuật kiến trúc và thuật điêu khắc rất phát đạt. Những cổ tích về kiến
trúc và điêu khắc ở thời Lý hiện còn ở chùa Vạn phúc (làng Phật tích, tỉnh Bắc ninh) chùa Đọi (làng Long đội, tỉnh Hà nam) chùa Cối, chùa Đông viên, chùa Cổ tháp,
chùa Đa giá, tháp Bình sơn (tỉnh Vĩnh
yên). Những đồ bằng đất nung đào được ở Đại la thành trong thị trấn Hà nội
cũng là di tích của các cung điện thời Lý, hiện tàng trữ tại Quốc gia bảo tàng
viện. Xét các di tích ấy, người ta nhận thấy về đại thể, trong kiểu cách kiến
trúc các chùa, đền, đài, tháp thì nghệ thuật Việt nam đã bắt chước kiểu cách
của nghệ thuật Trung hoa, nhưng trong cách phối trí và biểu hiện về chi
tiết thì người Việt vẫn duy trì hoặc sáng tạo được những cái chứng tỏ được bản
sắc riêng của dân tộc, ví như cái mái nhà cong, và cái vì nhà cột giữa
giống kiểu Anh-đô-nê, có lẽ là kiểu kiến trúc Lạc việt xưa, cách lợp nhà bằng
ngói tấm, hoặc cái hình rồng chạm gỗ hay đá, mình tròn và thanh thú, thoăn
thoắt lượn những khúc cong uyển chuyển nhỏ dần về phía đuôi, thì khác hẳn với
nghệ thuật Trung hoa. Trong nghệ thuật Việt nam bấy giờ, người ta cò nhận thấy
một ít ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn độ, có lẽ do các tăng già Ấn độ truyền sang, và nhiều ảnh hưởng Chiêm
thành, nhất là trong sự dùng vật liệu gạch và đá lộn nhau[1],
trong sự dùng những hình người trần truồng ở giữa những ranh xô đóng khuông các
bức điêu khắc, cùng là trong những hình chạm góc các bệ đá.
Những di tích nghệ thuật về thời Trần, thì hiếm hơn về
thời Lý. Những di tích trọng yếu là cái âu thờ của chúa Thầy (Sài sơn, làng Thiên phúc, tỉnh Sơn tây) cái
tháp mộ Trần Nhân tôn ở Tức mạc (Nam
định), cái bia ở làng Thị đức (Hải
dương), và nhất là thành nhà Hồ ở Thanh hóa. Người ta nhận thấy rằng trái
với nghệ thuật tinh vi tế nhị của thời Lý, nghệ thuật thời Trần có một lối biểu
hiện nặng nề và mạnh khỏe hơn. Tiếc rằng những di tích thời ấy không rõ vì lẽ
gì sót lại rất ít, chúng ta không thể xét xem nghệ thuật ở thời hưng thịnh ấy
có biểu hiện được cái lực lượng và cái tinh thần hùng dũng của dân tộc ta ở lúc
bấy giờ không. Nhưng cứ xét cái thành Tây đô của Quý Ly ở cuối thời Trần, chúng
ta cũng thấy rằng cái kiến trúc tài tình và mạnh mẽ của mấy tòa cửa thành toàn
bằng đá ấy (có khối dài đến 7 mét, cao
đến 1 mét rưỡi và nặng đến 16 tấn), tất còn hưởng được cái dư ba của thời
kỳ toàn thịnh trước.
Di tích nghệ thuật về thời Lê thì có mấy cái bia và
một ít đồ đá gãy nát ở Lam sơn và một ít đền chùa ở Bắc kỳ. Những di tích ấy tỏ
rằng nghệ thuật thời Lê có tính chất thể thức hóa hơn, tức là có vẻ xa tự nhiên
hơn nghệ thuật thời trước.
Nghệ thuật ở thời Trịnh thì di tích còn lại phần nhiều
là đền chùa và các vật điêu khắc ở trong các đền chùa ấy ở Bắc kỳ. Theo những
di tích ấy người ta nhận thấy rằng cái tính chất thể thức hóa ở thời này lại
còn sâu xa hơn ở thời Lê sơ. Lối trang trí thì lại phiền phức chứ không giản dị
như ở thời Lê sơ và thời Lý Trần.
Sang thời Nguyễn, Huế đã thành trung tâm điểm của
nước, nên ở đó, dưới sự săn sóc của các vua và các nhà quí tộc, thì nghề kiến
trúc và nghề điêu khắc hiện còn di tích ở các lăng tẩm và đền chùa được phát
triển thịnh vượng theo tính chất và qui mô của thời các chúa. So kiểu cách và
phương thức biểu diễn thì nghệ thuật ở Huế và Đường Trong cũng không khác gì
nghệ thuật ở Đường Ngoài, nhưng xét về qui mô thì thấy các tác phẩm ở Đường
Trong thường nhỏ hẹp hơn, xét về thể thế thì thấy nghệ thuật Đường Trong có vẻ
xinh xắn, nhẹ nhàng và tỉ mỉ hơn, có dáng nhu mì nhỏ nhắn như người và cảnh xứ
Huế. Song ở Đường Ngoài thì trong thời Nguyễn, nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc lại chỉ là chép lại với một khuynh hướng suy thoái những thành tích ở thời
Lê Trịnh mà thôi.
Về các ngành nghệ thuật khác, như hội họa, âm nhạc,
hiện chúng ta không còn di tích gì của thời xưa để nghiên cứu. Chỉ thấy trong
sử chép rằng vua Lý Cao Tôn, năm 1202, sai nhạc công theo âm nhạc Chiêm thành
mà soạn bài nhạc mới, giọng điệu rất ai oán, lại chép rằng đời Hồng đức
(1470-1497) Thánh tôn sai các quan có tiếng là bác học, Thân Nhân Trung, Đỗ
Nhuận và Lương Thế Vinh, kê cứu âm nhạc của Trung quốc mà đặt ra hai bộ : bộ ĐỒNG
VĂN chuyên tập âm luật để hòa nhạc, bộ NHÃ NHẠC chuyên dùng nhân thanh để xướng
hát. Lại đặt bộ GIÁO PHƯỜNG để trông nom âm nhạc ở dân gian. Những điều ấy
tỏ cho chúng ta thấy rằng âm nhạc xưa của chúng ta chịu ảnh hưởng cả của âm
nhạc Trung hoa và âm nhạc Chiêm thành. Sang thời Trịnh Nguyễn thì ảnh hưởng
của Chiêm thành đậm đà ở âm nhạc Đường Trong (cung nam) và ảnh hưởng của Trung hoa đậm đà ở âm nhạc Đường Ngoài (cung bắc).
Ở Đường Ngoài thì từ thời Trung hưng, âm nhạc không do
Nhà nước trông nom nữa nên bắt đầu suy. Âm nhạc của Giáo phường thì những người
thức giả chê là tục nhạc mà không thèm học đến, cho nên âm nhạc đã thành một
chuyên nghệ của bọn giáo phường dùng để sinh nhai mà mất hẳn tính chất nghệ
thuật. Sang thời Nguyễn âm nhạc giáo phường cũng suy vi hẳn. Ở Đường Trong thì
nhờ được sự dồi mài của lớp quí tộc triều Nguyễn, của các ông Hoàng bà Chúa,
nhất là của đội Nhạc chính trong cung vua mà âm nhạc được duy trì và phát đạt.
Nhưng âm nhạc ở đây phần nhiều lại phát triển về cung nam có vẻ ai oán tiêu
trầm.
Sử lại chép rằng thời Trần, Hưng đạo vương đánh giặc
Nguyên, bắt được một người Trung hoa tên là Lý Nguyên Cát giỏi nghề hát tuồng,
người ấy đem lối hát ấy mà dạy cho người Việt. Theo sách VŨ TRUNG TÙY BÚT thì
lối hát chèo cũng xuất hiện ở thời ấy.
Trải qua thời Lê Trịnh lối hát chèo thịnh hành ở Đường
Ngoài hơn ở Đường Trong, mà lối hát tuồng thì ở Đường Trong lại thịnh hành hơn,
nhất là từ khi nhà Nguyễn thống nhất Nam Bắc. Song đến mực phát triển nhất của
nó, người ta thấy nó vẫn mang một cái gì chật hẹp và nghèo nàn, trong kỹ thuật
cũng như trong tinh thần.
VI.
GIỚI HẠN CỦA SỰ HÁN HÓA
Đoạn này đã đưa trên blog này
ngày 27.10.2019
Cuộc Hán hóa của dân tộc Việt nam tuy là rất sâu xa,
nhưng xét kỹ về mọi phương diện, thì ảnh hưởng của văn hóa hán tộc phần nhiều
chỉ là thóp vào cái gốc mà thành ngành ngọn, hay là chỉ trùm phủ làm da thịt ở
ngoài, còn cái căn bản cái cốt cách thì vẫn là đặc biệt Việt nam. Cái căn
bản hay cốt cách ấy, chúng ta có thể nhận thấy ở trong những phong tục, những
tín ngưỡng của dân chúng, phần nhiều là những thói quen và những nếp nghĩ tổ
tiên xa của ta vốn có từ đời thượng cổ, đã do những phong tục, những tín ngưỡng
của người Trung hoa (đạo giáo và phật
giáo) làm thành phức tạp và có vẻ tinh vi hơn. Ví như tục chôn người
chết, vốn xưa là chôn xác những đồ minh khí bằng đất bằng đồng, từ thời Hán hóa
thì những đồ minh khí biến thành đồ giấy người ta đốt ở trên mộ và đốt trong
những ngày giỗ tết, và ngày rằm tháng bẩy là ngày xá tội vong nhân. Lại như
tiếng nói là cái gương phản chiếu tính tình và tư tưởng của một dân tộc, chúng
ta thấy có lẽ tiếng Việt nam đã mượn đến hơn một nửa của tiếng Tàu và chữ Hán, song
chúng ta mượn tiếng mượn lời mà vẫn nói theo giọng của ta, vẫn xếp đặt theo cú
pháp của ta, khiến ngôn ngữ ta vẫn giữ hoàn toàn tinh thần cố hữu của nó.
Lại xem âm nhạc và các lối hát chúng ta đã theo
người Hán tộc nhiều, nhưng lối ca dao và lối hát bình dân khác mà dân chúng
bao nhiêu đời đã ký thác tư tưởng và tâm tình vào, thì chúng ta thấy nó vẫn chan
chứa một cái hồn riêng của dân tộc. Suy rộng ra tất cả các phương diện văn hóa
khác, chúng ta có thể nói rằng trong cuộc hán hóa, tổ tiên chúng ta đã biết lấy
cái căn bản, cái cốt cách cố hữu mà dung hòa những yếu tố văn hóa ngoại lai.
Nhưng dân tộc ta là một dân tộc nhỏ, mà vận mệnh lịch
sử bắt phải sống ngay bên cạnh và giữa đường phát triển của một dân tộc rất
mạnh là Hán tộc, lại phải sống ở một mảnh đất, tuy phì nhiêu nhưng chật hẹp và
luôn luôn bị thiên tai hoành hành, cho nên cuộc sống khó khăn vất vả hàng ngày
đã rèn luyện cho dân tộc một cái năng lực thích ứng để có thể sống còn, năng
lực ấy đã gây cho văn hóa của ta những tính chất đặc biệt.
Tuy dân tộc ta đã tự chủ về chính trị mà uy quyền của
văn hóa Trung quốc còn mạnh mẽ hơn mười phần. Về học thuật, trong các học thuyết tư tưởng của thánh hiền, các thời
Tam đại và Hán Đường Tông, kẻ sĩ nước ta có thể tìm đủ lợi khí tinh thần để sửa
mình và làm chính trị, họ không thấy cái cần thiết phải tìm kiếm đường nào khác
nữa. Cũng có lẽ vì dân tộc ta là một dân tộc nhỏ, cái khuôn khổ sinh hoạt của
chúng ta so với Trung quốc rất là chật hẹp, cho nên vô luận là vấn đề gì về
quốc kế hay dân sinh, cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy
các “thánh hiền” Trung quốc giải quyết sẵn cả cho mình rồi, cái công phu của
mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng, chứ không cần sửa chữa thêm
thắt chút gì. Trái lại, cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá,
thì chúng ta lại phải hãm lại, co lại cho vừa với kích thước khuôn khổ chật hẹp
của chúng ta, cho nên kẻ sĩ của ta có học cao lắm thì cũng chỉ là học những
điều thực tiễn về luân lý và chính trị trong tư tưởng học thuyết của nho gia
thôi. Câu nói của La sơn phu tử là một kẻ sĩ có tiếng bực nhất ở thời Lê mạt :
“Cái đạo học của thánh môn thì đã có sách của Liêm Khê, Minh Đạo, Y Xuyên,
Hoành Cừ, Khang Tiết và Chu Văn công, bậc học ước lễ, không thiếu điều gì nữa,
người sinh ra sau những bậc ấy, chỉ lo cái đạo không thi hành ra, chứ không lo
cái đạo không sáng” [2],
có thể tiêu biểu cho cái cao vọng của cả giai cấp nho sĩ thuở xưa là chỉ lo thi
hành cái đạo của thánh hiền mà thôi. Bởi thế, chính trong thời toàn thịnh của
nho học nước ta, người ta thấy có những bực nhà nho kinh luân như Tô Hiến
Thành, nhà nho anh hùng như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà
nho khảng khái như Nguyễn Trãi, mà tuyệt nhiên không thấy được một nhà tư
tưởng, một nhà triết học nào. Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để
bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý, chứ không có nhà
nho nào dám hoài nghi bất mãn đạo lý xưa mà băn khoăn, khao khát đi tìm đạo lý
mới.
Có những người, sau khi làm tròn phận sự một người
quân tử ở đời thì “rũ sạch nợ trần” đi tìm nhàn hạ ở nơi thôn dã, hay có người
bất bình với thời thế khiến mình không thể làm trọn phận sự được mà đi tìm an
ủi ở sơn lâm, nhưng thảy đều là những người chỉ cần tự nhiên cấp cho những thú
thanh cao để di dưỡng tính tình mệt mỏi, hay để khuây khỏa cuộc đời ô trọc, chứ
không ai dám đem tâm trí mà tìm tòi, mà tra hỏi tự nhiên.
Xét rộng ra, chúng ta cũng thấy rằng tất cả các phương
diện của văn hóa Việt nam đều chỉ phát triển ở trong vòng ảnh hưởng của văn hóa
Hán tộc. Về nghệ thuật văn học,
cũng như về các phương diện khác, người mình đều có cái khuynh hướng thu nhỏ
qui mô bắt chước của Trung quốc để cho hợp với cái khuôn khổ sinh hoạt nhỏ bé
của mình. Vì thế mà người ta nhận thấy ở trong tất cả các môn bộ của văn
hóa Việt nam một cái tính chất chung, một cái tính chất rất tầm thường, mà lại
rất là quí báu cho ta, có lẽ nhờ nó mà một dân tộc nhỏ bé như ta, phải sống ở
bên cạnh một dân tộc đông đúc mạnh khỏe là Hán tộc, lại sống ở trong một miếng
đất chật hẹp luôn luôn bị tai trời vạ đất, thế mà vẫn sống còn, vẫn phát triển,
đó là cái tính chất thiết thực rất chắc chắn. Chúng ta không có những nhà tư
tưởng xây dựng được những công trình huy hoàng phong phú như những lâu đài Ả
rập và Ba tư, những công trình cao vót như các giáo đường gô tích, các bảo tháp
Ấn độ, hoặc những công trình đồ sộ như Kim tự tháp, Vạn lý trường thành, đến Đế
thiên Đế thích. Chúng ta chỉ cốt sống được thôi, và trong địa hạt sinh hoạt vật
chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái gì có thể
giúp cho mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt để theo đuổi một cuộc sống tầm
thường, kín đáo mà thôi. Bởi thế, thỉnh thoảng, nếu có được một người nào có
khí độ phóng khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài
vòng lề lối – chưa nói rằng vượt ra ngoài mà đã xây dựng được cái gì mới chưa –
thì xã hội đã xem là quái vật mà không dung, hoặc giả khi có nhà nghệ thuật
thực hiện được một cái gì to lớn phi thường, như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà
nội chẳng hạn thì cái mái nhà nặng nề sầm sập của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở
trong bóng tối mò của gian chính tẩm. Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ ấy
thường bị cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
Cái tính thiết thực ấy, chúng ta cũng thấy rất rõ ràng
trong phần văn hóa bình dân vốn phát triển ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp
của văn hóa Trung quốc, trong những câu tục ngữ, những câu ca dao, là văn
chương truyền khẩu phản chiếu cái tâm hồn chất phác mộc mạc của kẻ dân thường.
Hình như sống ở dưới bóng của cái khối văn hóa Trung quốc, sừng sững ỏ bên mình
như cả núi Thái sơn, văn hóa chúng ta, cho đến cả văn hóa bình dân không sống
hẳn ở trong vòng bóng ấy, chỉ cố sức để man diên ở trên mặt đất chứ không có
cái khuynh hướng trổ vọt lên trời. Để sống còn, chúng ta chỉ cốt bám chặt lấy
đất như bám lấy cái nguồn sinh khí, cho nên chúng ta không có cái vinh dự có những
tổ tiên chọc trời khuấy nước, làm chấn động thế giới bằng tư tưởng hay hành
động của mình, nhưng chúng ta lại đã may mắn có được những tổ tiên cần cù, kiên
nhẫn, biết sống thiết thực và biết tổ chức cuộc sống một cách thích đáng để đối
phó với vận mệnh khắc nghiệt của mình. Nói một cách khác, một dân tộc có cái
vận mệnh tàn khốc như dân tộc ta, chính nhờ cái tính chất thiết thực chắc chắn
ấy mà đã sống dai được và đã tránh được sự thôn tính của dân tộc Trung hoa, để
có thể mở rộng phạm vi sinh hoạt vào đất Chiêm thành và Chân lạp. Đối với thiên
hạ thì có lẽ văn hóa thực tiễn ấy chưa có cái giá trị gì đáng tự phụ, đáng khoe
khoang, nhưng đối với chúng ta thì nó đã có cái giá trị vô cùng là đã tranh đấu
được cho chúng ta sống đến ngày nay để còn tranh đấu nữa.
Cái giá trị tranh đấu chúng ta nhận thấy trong cái
tính chất thiết thực ấy lại tuồng như chỉ là tiêu cực. Ngay trong văn hóa bình
dân, cái văn hóa phát triển ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của Hán hóa –
trong những câu tục ngữ, câu hát ví, những câu chuyện khôi hài, những câu
chuyện tiếu lâm, những bức tranh Tết – tuy có lộ rõ cái tinh thần chống đối
luân lý lễ giáo của nhà nho, thế mà cũng chỉ là sự chống đối tiêu cực của kẻ
yếu mà thôi.
Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng, mỗi khi vấn đề sinh tử tồn vong của dân tộc bị đặt ra một cách khẩn
thiết, ví như khi phải đối phó với cái họa bị Hán tộc thôn tính, và khi phải
tìm đường sống mới ở đất Chiêm thành và Chân lạp, thì chúng ta tất phải biết
rằng nếu không tranh đấu tích cực thì đến phải nguy vong.
[1] Trước khi Lý Thánh tôn, năm
1037, xây tháp nền đá ở Phật tích, thì Lý Thái tôn năm 1044 đã đánh được Chiêm
thành và bắt được hơn năm nghìn người Chiêm đem về Bắc
[2] Trần Trọng Kim, NHO GIÁO
quyển III, trang 550