Ghi chép từ công trình nghiên cứu xã hội học Nga
Bản tiếng Nga của V.V.
Serebryannikov
Tác giả sách là giáo sư tiến sĩ khoa học triết học .Sách nằm trong chương trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội chính trị Viện hàn lâm khoa học nga và Trung tâm xã hội học các vấn đề anh ninh
quốc gia
Nhà xuất bản Thế giới khoa học
, Moskva, 1977
Lời dẫn
Nếu đọc bài viết Bối cảnh lịch sử Việt nam giai đoạn
1558-1802 tập san Nghiên cứu Huế
tập VII, NXB Thuận Hóa 2010, ở tr 93-95, người ta sẽ thấy nhà sử học Nguyễn Hữu Châu Phan cho biết :
“Họ Nguyễn trong lãnh thổ Đàng Trong
từng dùng chính sách táo bạo” biến hết dân làm binh”.
“Một tu
viện trưởng là Choisy, đến Đàng Trong vào năm 1656 nhận xét “Người Đàng trong
chỉ sống với chiến tranh.”
“Thích Đại
Sán, một nhà sư Trung quốc cũng có mặt thời ấy thì ghi nhận là trong nước[ Đàng
Trong] , hay bàn việc võ bị, chẳng chuộng văn đức’
“Ông này còn kể “ hỏi chuyện biết rằng trong
nước trăm thứ thợ đều do quân nhơn làm.
Mỗi năm vào khoảng tháng ba tháng tư quân nhơn đi các làng, bắt dân từ 16 trở
lên, những người thân thể cường tráng,
đóng gông lại bằng một cái gông tre, hình như cái thang nhưng hẹp hơn, để giải
về phủ sung quân; vào quân đội rồi mỗi người bắt chuyên học một nghề ...có
chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự
ở theo vương phủ làm xâu ... Những dân còn lại ở nhà toàn gầy yếu tàn tật chẳng
có mấy người mạnh mẽ “
Cả Đàng
Ngoài thời ấy cũng cho thấy đó là một đạo quân chứ không phải một xã hội bình
thường.
Nhiều tài
liệu của các giáo sĩ phương Tây gọi các chúa Trịnh là các tướng quân, các đại
nguyên súy...
Nhưng đó không phải là tình hình riêng của thế kỷ XVII - XVIII .
Mà trên nét
lớn, phải nhận là tình hình chung của dân mình xứ sở mình quốc gia mình kéo dài
suốt trường kỳ lịch sử và càng trở nên
sâu đậm rõ rệt trong hôm nay.
Có nhiều
người cho rằng chiến tranh là một chuyện, sự phát triển bình thường là một
chuyện khác.
Một thời gian dài, tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng
rồi thực tế cứ buộc tôi phải nghĩ ngược lại.
Trên phạm
vi xã hội, quá khứ chiến tranh là một phần làm nên những lý do khiến cho vào
những ngày này, chúng ta làm việc gì cũng gặp khó khăn vấp váp. Từ kinh tế tới
giáo dục, cách làm thường khi là theo lối chụp giật, cốt giành được những chiến
thắng nhất thời, mà không phải là những giá trị bền vững. Nhiều vấn đề đạo lý
xã hội đang trong tình trạng suy đồi, và trong cách sống của con người chất
chứa nhiều yếu tố bạo lực .
Để đi dần
tới những quan niệm như vậy, người ta không thể không viện dẫn tới sự trợ giúp
của sách vở, nhất là những thành tựu của các ngành khoa học xã hội hiện đại.
Sau đây là
một tài liệu tôi đã tìm được cho mình và tạm ghi chép lại.
Khi đọc các loại tài liệu này, tôi thường tự
nhủ: cố nhiên là việc áp dụng các kiến thức từ
sách vở nước ngoài tới thực tế VN bao giờ cũng đòi hỏi một bản lĩnh nhất định, nhưng không
vì thế mà chúng ta chỉ đóng cửa tự cấp tự túc trong quan niệm, rồi đưa ra “những nồi canh suông” như cách làm phổ biến hiện tại.
Cuối cùng
cần nói thêm đây không phải là bản lược thuật chính xác cuốn sách đã đọc mà chỉ
là những ghi chép người viết chuẩn bị cho mình vì thấy cần cho công việc của
mình.
Chương III Chiến tranh và xã
hội.
Tác động chiến
tranh tới xã hội
Chiến tranh khá
hào hiệp trong việc “chặt phá” “đốn ngã”
những người mạnh khoẻ, tài năng đương sức. Số phần trăm người xuất sắc
có tài có đạo lý mà chết lớn hơn nhiều so với số phần trăm những kẻ bình thường.
Điều này khiến
cho sau chiến tranh, tiềm năng sáng tạo của xã hội bị hạ thấp. (Theo P.Sorokin Tình trạng hiện thời của nước Nga Novyi
Mir 1992 số 4-5 )
Đầu chiến tranh
vệ quốc, tất cả nam giới ở các trường cao đẳng đi lính. Số này chết với tỷ lệ
cao, gấp 6-7 lần người thường.
P. Sorokin kết
luận, tất cả các cuộc chiến tranh và cách mạng đều là công cụ chọn lọc có
tính chất tiêu cực trước hết với những yếu tố tốt đẹp trong cư dân. Cái hư
hỏng tầm thường được nuôi dưỡng. Cái ưu tú bị triệt phá.
[tr 90] Chiến
tranh đưa đám đông trở lại tình trạng dã man, làm tan rã đời sống tinh thần,
làm họ hung bạo như thú dữ, làm họ hoang dã như các giống vật chưa thuần hoá.
Cùng với chiến tranh là sự phổ biến của bạo lực, sự phi nhân hoá, sự thụt lùi,
tan vỡ các giá trị cuộc sống. Các cuộc chiến tranh lớn là nhân tố làm thoái hoá
con người.
Trong chiến
tranh các dân tộc trở nên phân hoá, người theo ta, người theo địch, người đi du
kích, người trốn tránh. Làm cho con người trở nên giống nhau, làm cho dân tộc
tự tách biệt khỏi thế giới. Chỉ với các
xã hội theo mô hình chủng tộc -- những dạng xã hội không có cá nhân và, nói cho
chính xác ra là chưa hình thành V.T.N. chú --
chiến tranh mới là nhân tố khiến các cộng đồng này trở nên gắn kết.
[tr 94] Chiến
tranh phục vụ lớp người có quyền. Còn những nhà văn hoá, nhà khoa học thì đóng
vai “chiến đấu” – “ca ngợi” - theo đơn đặt hàng của lớp người có quyền đó.
Chiến tranh làm
cho những người thuộc loại dân đen song liều lĩnh táo gan – nói một cách sang
trọng là có tinh thần dũng cảm, thông minh -- sớm được đứng vào hàng ngũ quý tộc quân sự và
chuẩn bị bước vào giai tầng lãnh đạo.
Chớ nên dừng lại ở những cuộc chiến tranh lớn.
Chính những cuộc chiến tranh nhỏ cũng làm mòn sức lực con người.
Các dân tộc quen chiến tranh cũng
sinh thói quen dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề xã hội.
[Tr 95] Chiến
tranh là một hiện tượng chém giết tự phát ….
Từ thời cổ,
chiến tranh tạo ra sự vận động xã hội. Tính chất tiến bộ của chiến tranh là
thuộc về quá khứ. Trong xã hội hiện đại, người ta không tìm thấy ở đây một cái
gì tương tự; ngược lại, người ta chỉ
thấy kinh tởm và xa lạ.
Với chiến tranh,
người ta đánh mất mình. Họ không còn khả năng chịu đựng sức ép nặng nề của nó,
không còn khả năng bình phục trước mọi đòn đánh của nó.
Huống chi giờ
đây người ta hay nghĩ cả đại chiến, cả chiến tranh nhỏ không phải là không
tránh khỏi.
Giờ đây, người ta thường coi nó chẳng qua chỉ
là kết quả của những lựa chọn sai lầm tuỳ tiện của các nhà chính trị,
khi những người này suy nghĩ bằng những phạm trù của các thế kỷ cũ.
Mang lên mà cân
tính thì thấy:
1. Chiến tranh
hại nhiều hơn lợi.
2. Số cuộc
chiến tranh “thúc đẩy tiến bộ” chỉ là một số nhỏ trong lịch sử.
3. Phạm trù
“tính tiến bộ” không áp dụng được với những cuộc chiến tranh hiện đại (thời
khoa học kỹ thuật)
Vũ khí hiện đại
biến chiến tranh thành một hiện tượng bùng phát của huỷ diệt.
Riêng về các
cuộc nội chiến:
- Vật hy sinh ở
đây là dân thường
- Sau chiến
tranh, họ rất khó chuyển sang đời sống lao động bình thường
Nẩy sinh nội chiến khi có thay đổi ghê gớm
trong hệ thống giá trị của xã hội. Với nhóm xã hội này, hệ thống ấy là bắt buộc;
với nhóm khác lại không thể chịu được.
Chương VII Con người và chiến
tranh
[tr 224] Chiến
tranh bộc lộ tài thao lược, sáng kiến. Chiến tranh cho thấy một chiều sâu và cả
quy mô của sự suy nghĩ. Tạo nên sự dũng cảm, hy sinh, sự cứu giúp lẫn nhau.
Đồng thời trong
con người có sẵn yếu tố muốn chiếm đoạt, gây gổ, chém giết. Chiến tranh đẩy
nhanh những cái đó.
[tr 227] Dẫn lại P. Sorokin “Trong chiến tranh, tầng
lớp tinh hoa và cả những người theo quan niệm dân gian là “người tốt”, thường dễ chết, do đó chết nhiều hơn; bọn tội
phạm, cầu an, lưu manh làm bậy... dễ sống sót hơn. Trong từng con người, những
yếu tố tiêu cực ấy cũng chiến thắng luôn phần tốt đẹp. Chiến tranh làm nghèo đi
các quỹ “gien” của nhân loại”
Sorokin cho
chiến tranh giống với người làm vườn phá bỏ thứ rau tốt nhưng để lại cỏ dại, và
hơn thế làm cỏ dại nhân lên nhiều lần.
Với việc cổ động cho việc giết người hàng loạt,
chiến tranh làm mất giá bản thân đời sống.
Từ đây người ta
hiểu tại sao những kẻ chủ trương chiến tranh thường cổ động cho sự sùng bái
khuynh hướng tội ác. Khắc nghiệt tàn bạo; khát máu; sẵn sàng tàn phá các
giá trị vật chất và tinh thần. Kể cả thói quen cướp bóc cũng được dung túng.
Sau chiến
tranh, nhân loại trở nên kém cỏi tồi tàn đi về mọi phương diện, đặc biệt về đạo
đức.
Chiến tranh ảnh
hưởng tới sinh lý con người. Ảnh hưởng tới việc xã hội hoá con người.
Đám
đông tha hóa
[Tr 229] Với K.
Clausevítz, chiến tranh là một loại hoạt động chung sống của con người. Người
ta thấy nó ở mọi thời đại mọi cộng đồng.
Chiến tranh có
tác dụng tới việc lựa chọn xã hội chọn lọc .
Nhưng chiến
tranh càng phát triển, vai trò này càng giảm thiểu và nó trở thành một cái gì
có thể tiêu diệt cả nhân loại.
Tác dụng tiêu cực bộc lộ theo nhiều hướng. Nó
làm tha hoá đám đông, làm họ xa rời lao động xây dựng và sáng tạo, làm cho phần
lớn cư dân rơi vào chết chóc, thương tật.
Tăng tổng số
người chết, hạn chế số sinh đẻ. Hạn chế tự do. Làm xấu đi điều kiện xã hội hoá
con người cũng tức là những điều kiện để phát triển và bộc lộ tài năng.
[tr 233] Chiến
tranh càng phi nghĩa - phi lý, thì sự suy thoái càng rõ.
Tình trạng
thoái hoá xảy ra ở những kẻ điên cuồng, “anh hùng hoá“ trong chiến tranh. Đạo
lý chỉ còn ở những người có ý thức từ bỏ nó, chống lại nó, lên án kẻ chủ trương
nó.
[tr 234] Trong
chiến tranh người ta không thể thắng nếu không hình thành nối trong đội quân mình,
giữa các đồng đội của mình, lòng căm thù với quân địch. [Rồi lòng căm
thù ấy không rời bỏ họ nữa.]
[tr 235] Chế độ
quyền uy không quan tâm tới việc biến nhân dân thành chủ thể mà chỉ là muốn
kiểm soát và chỉ huy họ.
Nỗi
sợ
[tr
236] Theo N. Golovin, có hai hướng
nghiên cứu quá trình nội tại của chiến tranh. Nghiên cứu bề ngoài -- các chiến
dịch, trận đánh. Và nghiên cứu phía bên trong. Sự thể nghiệm của con người -- bằng máu thịt của mình -- những cảm giác tình trạng đạo đức. Đó là nội
dung chủ yếu của việc nghiên cứu về con người trong chiến tranh.
[tr 239] Cần nghiên cứu sự tiến hoá trong tính tích cực
chiến đấu của chiến sĩ, những yếu tố phát triển sáng kiến sự sáng tạo để đạt
tới thắng lợi.Tuỳ theo con người mà các hành động trong chiến tranh có thể thế
này có thể thế khác.
Cần nghiên cứu về nỗi sợ. Người nào
cũng có ám ảnh.
[tr 243] 75% những người tham gia chiến
tranh tự nhận dù đã được học hỏi, quen với các vấn đề kỹ thuật có tinh thần kỷ
luật… song vẫn tỏ ra tiêu cực “lúng túng, hèn, ngại khi vào cuộc, trước tiên là
vì mặc cảm yếu kém, cảm thấy mình không là gì cả, lo âu, sợ hãi”
Quân đội Liên xô có thời gian chạy dài từ 28-6 tới 24-7 1942. Một cuộc rút chạy kinh
khủng. Trong gần 1 tháng, rút 400km. Một ngày một đêm đi 15 km
28-6-1942 có một lệnh đặc biệt Stalin.
Cấm không được quay ngược, chỉ huy có quyền bắn nếu ai quay ngược. Lệnh này hết
sức tàn nhẫn, nhưng không có quy định như vậy, không có chiến thắng Stalingrat.
Qua đây ta hiểu cái gì đã giúp con người vượt qua nỗi sợ.
Nhiều thống kê cho thấy độ co dãn của
người chiến binh Nga rất cao và các nhà chỉ huy đã khai thác nó triệt để.
Chủ
nghĩa anh hùng và thời hiện đại
[tr 254] Hiện nay, nhiều người nói về
sự phi anh hùng hoá tức
sự sụp đổ của chủ nghĩa anh hùng. Nguyên do là cách mạng khoa học kỹ thuật biến
người lính thành cái máy.
Hết chủ nghĩa anh hùng = hết những người lãng mạn.
Chủ nghĩa anh hùng liên quan đến vị trí
mang tính không gian của người lính trong chiến đấu. Nó cần khi đánh nhau giáp
lá cà, gươm dáo, đánh nhau bằng súng nhỏ và không thật cần chẳng hạn khi đánh
nhau bằng pháo binh (lúc ấy không nhìn thấy nhau). Khoảng cách vũ khí càng xa
càng ít yêu cầu dũng cảm mà chỉ cần thực hiện đúng mệnh lệnh.
Đúng hơn, lúc này cần một thứ chủ nghĩa
anh hùng trí thức tức sự dũng cảm trong việc thực hiện những quyết định.
Thời chiến tranh các đơn vị thông
tin kỹ thuật không có anh hùng.
Đã đưa trên blog này lần đầu ngày 4 - 7 - 2011
https://vuongtrinhan.blogspot.com/2011/07/xa-hoi-hoc-chien-tranh.html