Nhật ký chiến tranh,
đã đưa trên blog này ngày 25-7-2012
Trong những điều tôi ghi ở đây -- từ 45 năm trước – có nhiều điều nay tôi đã nghĩ khác, chữ nghĩa dùng cũng phải khác. Nhưng để tôn trọng quá khứ, tôi xin phép vẫn giữ nguyên. Mong được sự đồng tình của các bạn.
3/7
Một trong những ngày mệt mỏi nhất của chuyến đi. Từ Quảng
Trị sang phía Triệu Phong. Cùng đi với những người chạy loạn. Địch đổ Hải Lăng
từ mấy hôm trước. Theo sự giải thích, ta để cho nó ra rộng mới đánh. Dân lại
tản cư.
- Những bà cụ già áo dài hớt hải gánh chậu, gánh túi.
- Một ông khoảng 50, cái mũ phớt che nét mặt hùm hụp.
Quần cộc, áo cộc. Khăn vắt vai. Bên nách, một hộp chè dang dở. Thất thểu.
- Một đứa trẻ bé 10 tuổi bế đứa độ 6 tuổi. Chân đứa được
ẵm thò gần xuống đất. Nó cần chị bế vì có lẽ nó sốt, mặt đỏ rừ.
- Một đứa trẻ độ 7 tuổi, cái xắc du lịch 2 quai đeo vai,
lại còn mủm mỉm nữa chứ.
- Rất nhiều ngưòi mẹ trẻ -- ở đây, người ta lấy
chồng, có con sớm. Một người nào đó có lẽ mới ở cữ chừng độ tháng nay, da trắng
và xanh rớt. Những đứa trẻ lớn hơn được quảy vào trong thúng.
Những bữa cơm tạm bợ ngay cổng ngõ những nhà bên đường.
Dọn ngay ra đất. Một chút thịt muối, một con lợn nào mới bị giết. Bọn trẻ con
giành nhau một bi đông nước rồi đổ tung cả ra sàn.
Lũ trẻ vẫn cần đi ra đi vào, cần nghịch, cần ngủ. Và người ta lo cho nó nhiều hơn lo cho chính mình.
Một người dân nói nước nhà mà có yên,
khéo chừng mỗi làng cũng còn được độ …một hai người.
--
Đánh nhau có phải như con bệnh, mỗi ngày thuốc thang giảm bớt. Đằng này, nó lại
như là lửa đổ thêm dầu vào mãi.
Vào những nhà đồng bào ở đây, cứ như là lạc vào những gia
đình Thái Lan về nước ở miền Bắc trước 1965. Những người phụ nữ một hai mặt
con, mặc quần áo chật, bó, mà bẩn, dơ dáy. Những cô con gái quần hoa áo hoa, và
thoáng thấy những cái quần trắng... Chợt nhớ những điều thuộc về đường nét chân
quê. Sự tấn công của văn minh tây phương hiện đại, văn minh Mỹ, hình như đã
công phá được cái phần cốt cách đã trì trệ, trong khi miền Bắc lại ...ngủ lì
trên cái cốt cách đó.
Một người lính kể
Từng ở Triệu Ái, Ba Lòng, Cùa. Đi đâu
cũng dễ. Dân Ba Lòng có một làng chuyên đi nhặt mua đồ hộp cũ của Mỹ, bán cho
mình. Cần gì dặn họ. Thời gian hắn xúc quân, đồng bào báo trước cho mình.
Con nít giữ trâu 3g chiều hắn về làng
xem có địch không. Không có địch thì thôi. Nếu gia đình bảo
có, hắn rấp cảnh lá báo trước cho mình.
(Làng này, 1967, đầu 1968, ta không
vào, cho nên dân làng còn tin mình tốt)
Sau địch hốt làng đi, ngay giữa mùa
lúa. Vào Cùa.
Lần đầu vào, ông già rinh khẩu súng lên
giường thờ, nhìn mãi: Mấy năm nay mới thấy khẩu súng cách mạng. Nhưng bận sau
các chú đừng mang vào...
Làng giàu. Một bà già bảo nếu vào nhà,
không ăn cơm, không mua được gì.
Có thời gian 3g30 chiều đã vào
dân.Thường họ hỏi có vợ có con chưa. Để, do họ có con gái, họ gả cho. Thật hay
đùa, nói cho vui lòng?
Dân bảo các chú về, tôi sợ. Thấy các
chú bị thương, ưng ra coi, nhưng tôi không dám ra, vì hắn doạ con gái ra cắt
tai. Tôi phải mượn đứa con nít tôi ẵm ra xem. Rồi đi khênh thương binh mấy bữa,
tôi hết sợ.
Bộ
đội vào, chưa mở chuồng gà bộ đội mở hộ, còn lính SG không bán gà thì hắn bắn.
Hắn vào nhà, lấy rơm. Y như cảnh trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan hồi tiền
chiến.
-
Hai anh ơi.
-
Không hai anh.
-
Thế kêu chi?
-
Kêu hai thày
-
Các thày đun thì đun củi, đun rơm hết rơm cho bò ăn.
Trốn
lính. Có người trốn 4 lần, mới bị bắt. Có người trốn 18 năm. Dân bảo tài. Tôi
trốn ra đồng chứ đâu mà tài. Toàn vợ đưa cơm cả.
Ở
đây, đồng bào ít biết nhà nhau, thôn này thôn kia không biết nhau.Thanh niên
không dám làng này qua làng khác.
Dân
ở ven thị xã, hỏi bến xe, không biết. Chỉ có những người buôn bán thì biết. Dân
khen Mỹ tốt. Con nít ra nơi đóng quân Mỹ chơi. Bọn Mỹ đóng ở nhà nào, khi đi
chào gia đình rồi mới đi.
Nhìn người dân ở đây, tôi không khỏi nghĩ tới những cơ
cực trong cuộc sống gọi là hậu phương ở nhà. Một gia đình khốn khó hơn ở quê
Đông Hồ, nhà anh Bảo - một thứ khổ kinh niên, không phương cứu chữa. Mà đó là
gia đình còn ít đóng góp vào cuộc chiến, không có người đi lính, không có ai
chết, chỉ mòn mỏi cam chịu.
- Chúng ta sẽ khổ bao lâu nữa? Câu hỏi lúc này
được chuyển thành Chúng ta còn đánh nhau bao lâu nữa?
Mấy hôm nay, đài báo lại nói nhiều đến cái gọi là những
chiến sĩ vận tải trên mặt trận của mình. Tôi lờ mờ biết rằng đạo quân này có
khi còn đông hơn đạo quân đánh nhau, đang lần mò như kiến tha mồi tiếp tế cho
đạo quân đánh nhau.
Và bao giờ cũng vẫn vậy, sau khi nghĩ về đạo quân
khổng lồ đi đánh nhau, chúng ta nghĩ đến cả đạo quân chịu đựng sự đánh nhau -
đó là nhân dân.
4/7
Một ngày ven sông Ba Lòng. Lính ở những xóm làng dân bỏ
lâu ngày, nay biến thành một thứ trại. Nhà đổ, cỏ leo vào giữa nhà. Cây cối đổ
ngã. Những quả bưởi bé tí cũng bị lính vặt.
Những người lái xe mới học lái về, còn tử tế. Những người
lính vận tải trốn việc, ngủ có người gọi không trở dậy, dậy làm thì cãi nhau,
vặc nhau. Đêm ngủ hầm hai người thành bốn. Nằm đâm chân vào nhau, không buông
màn muỗi vo vo khá lâu mới ngủ nổi.
Người
dân Quảng Trị quen hút thuốc, ngay cả lúc chạy loạn cũng hút thuốc. Cha dúi cho
con nắm thuốc chưa thái. Bạn bè đưa nhau tờ lịch làm giấy. Chạy loạn ông bố vẫn
mang theo cái kéo và đứa con buồn tình lại lôi ra cắt giấy. Tôi không khỏi phì
cười khi trong số những thứ giấy mang ra làm giấy lộn có những tạp chí gọi là Tư
tưởng, Đối diện, nói về những Sartre, Machado, Brecht...
Tôi
chỉ yên tâm khi nghĩ rằng mình cũng đang cực khổ quá, mình cũng đang ở trong
tình trạng chung của sự bất lực của cả một dân tộc.
Những
bữa cơm đầu đường, những buổi tối ngủ nhờ, những câu chuyện tầm phào, về đào
hầm đào hào, giá một lon gạo, một mớ rau....
Tôi
vừa thích thú, vừa ngần ngại khi phải nghe chuyện những thường nhật ấy. Những
tình cảm mạnh hơn chợt đến, khi nghe những chuyện lớn lao. Ta kéo địch ra thế
này thế kia. Ta đã bố trí thế nọ. Tạm hy sinh, ráng chịu gian khổ, mọi việc sẽ
thay đổi, tương lai thật rực rỡ. Nhưng sự cảm động không giữ được lâu. Nó thay
đổi thất thường. Nhiều lúc thấy phấn chấn, chợt ứa nước mắt khóc. Liền sau đó
lại thoáng qua nghi ngờ. Thậm chí sinh lòng căm ghét. Cảm thấy bị bịp. Cho đến
lúc bắt gặp trong Một chút mặt trời trong nước giá một câu đại ý:
- Có
những chữ sáo, nhưng nội dung đều được diễn tả đúng với ý nghĩa của cái tiếng
sáo rỗng ấy. Lỗi không ở chữ. Lỗi ở người ở việc.
Quyển sách này của F.Sagan tôi nhặt lên từ một sàn nhà khi lang thang trên phố
xá đổ nát.
5/7
Trong
bom đạn, đôi lúc cứ định hỏi những người dân xem họ suy nghĩ gì về chính trị.
Rất nhanh, rồi tôi lại nghĩ hỏi thế cũng là một sự ngớ ngẩn. Với đa số những
người dân, lúc này là làm thế nào để sống, sống mà thoát khỏi cảnh đầy đọa.
Nhưng
chính trị vẫn là vấn đề đặt ra ngay từ Hà Nội. Tự do, độc lập, hạnh phúc, thịnh
vượng, quan hệ giữa văn minh vật chất và văn minh tinh thần, quan hệ giữa sung
sướng, dễ chịu, của cải -- và niềm tin lẽ sống. Cả chủ nghĩa nữa.
Một
gia đình bình thường ở đây, thu hoạch vài chục tạ thóc một năm. Giá mọi thứ rẻ.
Vải cao nhất 170đ 1 m. Gạo 100đ 6 lon (66,66đ 1kg) Lương giáo sư trung học
250.000đồng.
Sự
đổi mới làm những người đã đến cách đây mấy năm, giờ có dịp trở lại, thấy sửng
sốt,– một tờ báo mới in đâu hai tháng trước còn ghi nhận xét của một phóng viên
ngoại quốc như vậy. Về nông nghiệp, nông giang, máy nước, máy cày. Không còn
địa chủ. Nhà nước đấu thầu, cho nông dân làm rẽ, thay đổi hàng năm (một sự kích
thích sản xuất). Một hệ thống xa lộ loại tốt nhất Đông Nam Á.
Người
ta không nghĩ đến sự chọn lựa nữa.
6/7
Ở Đội Thuyền Mỹ Lộc
Đêm
nằm, nghe pháo, bom rất nhiều. Nhưng nghe đài, nhớ Hà Nội và gia đình. Báo chí,
báo Nhân Dân nói nhiều tới sơ tán quá. Tức ngoài kia nó đánh khá căng
thẳng. Thêm những khu phố nào của Hà Nội bị tàn phá, nhà máy điện -- trái tim
của Hà Nội -- có còn không biết.
Nếu
không có điện nữa, thì Hà Nội buồn lắm, ví như mình ở nhà, chắc ít được rời sơ
tán về Hà Nội. Bạn bè mỗi người một ngả, và người nào cũng cúi mặt xuống vì nỗi
lo toan hàng ngày, hướng đi bế tắc.
...
Bao giờ thì sinh hoạt lại có thể ổn định trở lại, tâm lý mọi người bình tĩnh
trở lại? Con người tưởng hôm qua mình khổ đã đến kỳ cùng rồi, nhưng trông về
phía trước, lại thấy chắc còn cực hơn, những khó khăn được dự kiến còn ghê gớm
gấp bội.
Kết
thúc mọi sự lan man trong đầu óc buổi sáng hôm nay, chỉ còn ước là mình còn
sống, để biết được tất cả những cái này sẽ đi đến đâu -- tội ác của kẻ địch, sự
quằn quại của mỗi chúng ta, và ngôn từ của chúng ta -- càng ngày lời lẽ tuyên
truyền trên đài TNVN càng trở nên phiêu lưu liều lĩnh hơn. Ngày mai, ngày mai
của chúng ta ra sao?
Người chết sau một trận bom. Người chết nhiều quá. Sao
lại như thế? Nhưng vẫn cứ thế, vừa định hỏi đã biết là chuyện buồn cười, ai lại
đặt ra câu hỏi ấy lúc này. Con người của chúng ta thường quá, rẻ quá, cho nên
giữa chết và sống, cũng không có gì khác biệt. Nhìn vào những người chết ta
nhận ra cái giá của cuộc sống ta đang hưởng.
Nhớ có lần vào Quân y viện 5. Ở ngoài, tôi rất ghét
thuốc, nhưng vào viện ít lâu sinh ra thèm thuốc, sùng bái thuốc, chỉ lo không
được cấp những loại thuốc cần thiết. Với súng đạn cũng vậy. Hôm từ 4 Lý Nam Đế
ra đi, trước khi lên xe, tôi đã xin phép ông Vũ Cao để khẩu súng lục ở nhà. Giờ
đi trên đất này, lại thấy cần. May mà có cậu lính nó chỉ ngay cho một khẩu
các-bin. Vui vẻ vác ngay. Ít nhất là để yên tâm rằng mình cũng đang như mọi
người.
(Ở nước tôi bây giờ, người ta dùng các thứ đồ quân
dụng phổ biến đến nỗi nghĩ thêm ra nhiều cách để trang trí cho nó đẹp hơn, và
quen hơn. Tôi, tôi không muốn như vậy.)
Bị
thương, máu bắn vào người khác mới biết. Quần áo loang lổ như quần áo lính dù
nhưng đây là loang lổ những máu. Máu rơi trên ba lô, ruồi vo ve tìm cái mùi
tanh chỉ máu mới có – tưởng là ai chứ hóa ra chính máu mình vậy. Trong đầu cứ
thấy vẳng lên những câu thơ có chữ máu:
Máu
đã chảy em ơi trong đó - máu Ba Lan và máu Hồng quân
Máu
Hồng quân, máu Trung Hoa- cùng là máu đổ cho ta đất này
Máu
người không phải nước lã.
Sau
những ngày máu đổ này, hy vọng sẽ được thấy những gì? Còn khó lắm, bởi vì cuộc
chiến tranh chẳng những tiêu phí của chúng ta những con người, sức lực của
người sống và sinh mạng của người chết - nó còn tiêu phí những ước vọng, những
chí khí.
Xem
mà xem, trong chiến tranh, chúng ta mơ ước những cái lớn lao đâu đâu, nhưng
cũng chính lúc đó, chúng ta trở nên thiết thực hơn, cụ thể hơn, có thể là hẹp
hòi tầm thường hơn, ta đã hỏng đi bao nhiêu.
Chúng
ta mất gì và được gì trong cuộc chiến tranh này? Câu hỏi ấy giờ nghe sang trọng
quá. Giờ thì không ai có quyền cân nhắc nữa. Lúc này, cái phải tính là tìm ra
sự lì lợm, sự bất cần, không lối thoát nào cũng cứ sống.
7/7
Đi
trên đường Quảng Trị bữa nọ, cả bọn thấy một con bồ câu đậu trên mái tôn.
Ứng b trưởng bảo bắn. Tôi bảo a trưởng Tác các - bin đây.
Nhưng Tác lấy ngay AK, quỳ một chân, bắn rất đàng hoàng. Con chim dại quá, cứ
đứng rỉa lông rỉa cánh. Thế là nó ngã lăn xuống đất, và tôi không đủ can đảm
xem nó bị bắn vào đâu nữa, chỉ thấy một vệt máu đỏ loang ra trên cái màu lông
trắng toát.
-
Thương nó quá đi.
-
Sao anh còn đưa các - bin cho em?
Tôi
không còn biết nói thế nào nữa. Mình cũng thèm sự giết chóc ? Mình cũng khát
máu? Và tôi cứ cảm thấy như vừa mắc tội!
Khi
giải phóng Quảng Trị, bắt đầu lúa chín. Người ta đã gặt ngay sau khi có
tiếng súng. Một phần thì hồi đó cũng ít bom đạn. Bây giờ mọi người đứng trước
một công việc khó khăn hơn, gieo cấy.
Hôm
qua nhong nhóng ngồi nhà, tránh bom, và xua con cái vào hầm. Người nông dân
Quảng Trị hôm nay lại buộc cái chạc ni lông vào cổ trâu, lại lấy ra những cái
cối xay đã cũ, để xay giã.
Chiến
tranh cũng đẻ ra nhiều cảnh hỗn loạn, người nọ đến ở nhà người kia. Cuộc sống
tất cả mọi người như bị lắc tung cả lên. Và với bản tính cố tìm một chỗ ổn định
của mình, người ta hiểu rằng cần sống nương tựa vào nhau, người ta tốt hơn,
nhân hậu hơn vốn có.
14/7
Về T70
Về T70
Có
lệnh quay ra. Từ vương quốc của hoang dại, bọn tôi sẽ trở lại vương quốc của sự
nhân tạo, cấy trồng. Những chán ngán trong gia đình, những lúng túng trong công
việc, và sự không phương hướng trong tình cảm – sẽ lại đối mặt tất cả. Sau
chuyến đi này liệu mình có khác được chút nào?
Lo
đường ra. Nghe người ta nói đường ra mà sợ. Địch đánh liên miên. Ngoài kia,
cách chỗ tôi đang ngồi viết không xa, những người dân Thanh Hoá, dân công đang
ngồi bệt xuống đất nói chuyện. Thanh Hoá, cái tỉnh bè bè ra đó, người đông quá
xá, người nào tiếng cũng bè bè, dáng dấp cũng bè bè. Đàn ông, có người 47- 48,
thuộc loại đã đi từ cuộc kháng chiến lần trước, đi từ Điện Biên Phủ, và bây giờ
họ lại đi lại. Bốc hàng, cáng thương, cấp dưỡng. Những cái quần bạc phếch,
những cái áo vá. Trông đàn ông xứ Thanh không hiểu sao người nào cũng như từ cổ
sơ trở về, đặc vẻ đàn bà, vơ véo đâu được một cái thắt lưng bộ đội, một cái mũ,
tự lấy làm bằng lòng lắm rồi. Và họ đã sống như thế, ăn tết như thế.
Vì
cái vẻ ốm o của họ, những cô con gái cứ gợi cảm giác sờ sợ, khiến tôi không dám
nhìn lâu.
-
Chỉ đàn bà có chồng mới không phải đi.
-
Cho nên khối cô rình rập lấy chồng.
-
Không đi ở nhà cũng khổ. Nó đánh chỗ đê phía bắc sông Mã rồi.
-
Nghe bảo Hoằng Hoá vừa rồi vẫn hoàn thành nhiệm vụ.
-
Nhưng mà mưa này mới gay.
-
Thôi sống chết cũng phải làm. Nơi nào khó thì lại kêu gọi đảng viên đoàn viên.
Hết loạt nọ đến loạt kia. Không chừng sinh viên cũng phải về làm ấy chứ.
-
Nhà tôi cạnh chỗ bom nổ có độ sào ruộng.
-
Quê ta ở cứ liền liền, nhà nọ cạnh nhà kia, không bằng từ đây đến chỗ cái ghế.
-
Thôi, Bác đã bảo, càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan.
Tiếng
bom vẫn ầm ì như đã là một thuộc tính của bầu trời này, một thứ đỉa dai dẳng
bám vào bầu trời, người ta cố dứt nó ra, không dứt nổi.
Ở cái trạm của tôi, ngày bao nhiêu khách, quây quanh các máy điện thoại. Thông
báo về tình hình trên đường. Gặp cấp trên, xin phương tiện, xin ý kiến. Việc
nào cũng cập rập. Và mọi người đều có cái vẻ bồn chồn, y như có bao nhiêu sống
chết phụ thuộc vào những cuộc đàm thoại đó.
Nhưng
rồi ai nấy bình tĩnh trở lại. Không, không phải là bình tĩnh, mà là lì lợm, mặc
mẹ mọi thứ.
Đi
đâu cũng thấy lính tráng cũng như cán bộ ăn và mời nhau ăn. Vì một bữa ăn, một
gói chè, một suất tiêu chuẩn đường sữa, người ta có thể đi vật nài quản lý hàng
ngày trời. Bao nhiêu con người, bao nhiêu ngày tháng bỏ phí. Với những người
vừa ở mặt trận ra, lúc này đây, không có gì chuyện quan trọng hơn ăn uống. Ấn
tượng chung là một cái gì ườn ra, nhếch nhác, ngán ngẩm, vô cảm.
Trì
trệ đã thành một thứ khí hậu, ngay ở cái nới gần mặt trận này. Nhưng rồi tôi
nghĩ -- kéo dài mãi ra ngoài kia cả Hà Nội của tôi, cả cái tạp chí VNQĐ của
tôi, đâu đâu cũng cảm giác trì trệ ấy đè nặng, như những buổi chiều miền núi oi
bức.
Cái
sức mạnh của dân tộc bây giờ là ở sự chịu đựng. Một dân tộc như thế, rồi sẽ ra
sao? Sự chịu đựng vô giới hạn, đến độ người nước ngoài chắc không sao hiểu nổi.
Chỉ
còn một thứ rành rọt kỳ lạ, mà, bất cứ lúc nào ở trạm này lắng nghe cũng thấy,
đêm hôm nghe càng thấy: tiếng đài phát thanh. Tiếng đài vốn từ đâu vọng về, tức
là một cái gì không thật -- cái đó đã đành. Có điều cái thứ không thật ấy lại
nhắc đi nhắc lại, đều đều thành nhịp điệu đáng sợ, trở thành thật hơn mọi cái
có thật khác. Đêm nằm, người ta dí cả đài vào bên tai tôi, mà tôi không dám kêu
và không có quyền kêu. Tất cả mọi người chung quanh đều sống như vậy, tôi không
có quyền sống khác. Đáng lý mình cũng phải tập ăn, tập ngủ tập chơi bài, tập lì
lợm và chuẩn bị chen vào đội ngũ chiến thắng, tôi tự nhủ. Nhưng lại biết ngay
từng ấy việc mình không làm được việc nào cả.
15/7
Gọi
là đánh nhau, nhưng có lẽ ở nước nào cũng thế, người ta cầm súng bắn nhau không
mấy, mà nhiều nhất, dai dẳng nhất và kinh khủng nhất là những ngày sống gần như
chui rúc trong rừng, bên suối, những ngày ôm gối nhìn trời mưa, những ngày chờ
đợi.
...
Rồi rất lâu nữa, tôi phải xoay vào để hiểu. Cái giá trị của đời sống dân tộc
lúc này là ở sự chịu đựng. Trong vật vã chấp nhận, không quên làm dáng, ra oai
nhỏ nhen lặt vặt với nhau, để rồi lùi ra xa để nhìn, vẫn thấy vĩ đại. Chắc
nhiều người như tôi bắt đầu thấy chán sự vĩ đại kiểu đó, ước ao những sự vĩ đại
khác - những sự vĩ đại về phát minh, về sáng tạo chẳng hạn.
Nhưng
mà thích hay không thích, giờ đây, mỗi người cũng hoàn toàn chịu sự chi phối
của đặc tính cộng đồng, cũng triền miên trong sự chịu đựng và chấp nhận.
...
Đêm qua, gần sáng thì trời mưa. Những người dân công ốm đau nằm võng tận ngoài
rừng, lại lục tục chạy vào trú tạm ở các lán, các cô gái vừa ấm nồng vừa ướt át
đó, run rẩy và lạnh buốt đi trong gió, co ro ngồi nằm nhờ. Một cô, lúc sắp sửa
lại đồ đạc ba lô, ngán ngẩm thốt lên:
-
Thôi, đã gọi chiến tranh là phải thế.
Đúng
quá còn gì! Nhưng chung quanh chỉ im lặng đồng tình chứ không ai nói tiếp, vì
còn biết nói gì nữa. Không khí chung càng như chết lặng đi.
Có
những câu nói kiểu ấy. Chúng vốn sâu sắc, nhưng vì nhắc lại nhiều lần, nên lại
là một sự vô nghĩa. Ví dụ như hôm qua, nghe một cậu bảo “Nếu những thứ đồ
đạc của cải chiến tranh này chế ra cho mình dùng, thì đời sống mình nâng cao
biết mấy”. Ừ, người nói câu ấy, vừa là thông minh thật, mà cũng là lơ mơ lạc
lõng thật.
...
Từ chuyện dân công, muốn nói nhiều hơn đến những người đàn bà trong chiến
tranh. Có lúc nghĩ đáng ra đàn bà không nên có mặt ở nơi hòn tên mũi đạn
như thế này. Nhưng rồi mọi xó rừng đâu cũng có họ. Mà nghĩ cho cùng,
không có đàn bà thì làm sao hiểu được cái tình cảnh mà chúng ta lâm vào,
hiểu được cái phần nữ tính với nghĩa chấp nhận, thụ động -- nó là số phận chung
của mọi người chúng ta trong cuộc chiến hôm nay.
....
Người ta nói rằng tất cả sẽ quen đi - trong chiến tranh. Nhưng tôi đã hỏi rất
nhiều người rồi. Không ai quen được. Không ai thích được. Một bác sĩ bảo không
thể nào thích y học quân sự hơn y học nhân dân... Và dân tộc nào mà thích được
chiến tranh?!
Một
cộng đồng đau khổ đến nỗi bất cứ sự thật nào nói ra cũng làm người khác đau
lòng, người nọ sợ cho người kia, bởi trước hết sợ cho mình.
Một
cộng đồng người nào cũng cô đơn, nhưng trước mặt nhau lại phải luôn luôn tỏ ra
hồ hởi, lạc quan (cũng như miệng nói lo cho việc chung, nhưng người nào cũng
phải lo cho việc của riêng mình).
Một
dân tộc như vậy, là một sản phẩm của chiến tranh.
...
Bị chiến tranh đẩy tới, xâm nhập làm biến dạng cả mày mặt lẫn hồn cốt, -- rồi
người ta sẽ sống trong thời bình thế nào, ví dụ như liệu có thể làm lại
cuộc sống bình thường sống theo những lề luật của thời bình, xây nhà xây
cửa dạy con dạy cái, làm nên một nền văn nghệ của thời bình chẳng hạn? Nhiều
lần tôi tự hỏi mà cũng nhiều lần không biết cách trả lời.
18/7
Nghe
nói có thêm nhiều đơn vị vào tham chiến. Chiến trường bây giờ cả thảy đâu 6 sư
đoàn, chưa kể những đơn vị phối thuộc. Mặt đất Quảng Trị đã nát tương ra vì
những trận càn, những trận đánh nhau từ mấy năm trước, nay lại đang phải tự
chứng tỏ một khả năng chịu đựng mới. Bao nhiêu là bom đạn dội xuống trên những
ngả đường, dọc những con sông, con suối. Vậy mà bộ đội vẫn cứ ùn ùn kéo tới.
Những người lính như một thứ nấm đất, một thứ con của đất, đội đất đội cỏ mà
lên.
Những
dòng người như có khả năng của những con sông, tự cuốn chảy rồi lại tự đầy lên,
những vết thương của nó, đối với cái chỗ bị thương ấy, là dằng xé, vật vã,
nhưng đối với toàn thể là một điều bé nhỏ không đáng kể - rồi tất cả sẽ vượt
qua.
...
Cuộc chiến tranh đã bùng nổ đến cái mức cao nhất của nó. Nhịp điệu nhìn bề
ngoài thì còn chậm. Chưa thấy có những trận đánh lớn. Kẻ địch đang muốn ta đánh
theo cách của chúng. Phi pháo nhiều quá. Lúc nào cũng nghe anh em kêu “Nếu
không có máy bay thì...”
Người
của chúng ta rất đông, vào rất nhiều, nhưng còn gạo và đạn?
Một
chuyến xe đi ra Hà Nội rồi lại vào, khi chưa có chiến tranh phá hoại đi mất 5-7
ngày, hiện nay đi mất 1,5 - 2 tháng.
Một
con số khác. Thương binh ra những ngày thường khoảng 120 người!
Có
lẽ tôi quá nhạy bén với những khó khăn. Tôi hay thương cảm mà bi quan. Nhưng
không hiểu sao, số phận không cho tôi được chứng kiến những phút hào hứng như
khi người chiến sĩ vào thành phố giải phóng, những lớp quân đi tràn qua... Tôi
chỉ toàn gặp những khung cảnh bi đát. Lính oằn mình ra chịu bom. Những người
dân nhốn nháo chạy loạn. Ôi, cái đất nước của chinh chiến này, nét mặt đàn bà
con trẻ người nào cũng xiêu vẹo cả đi. Sao tôi lại gặp toàn những cảnh đó?
Không biết nay mai mọi chuyện thế nào. Nhưng bây giờ, tôi sợ cho cái ý nghĩ sau
đây của mình. Cố gắng của cả nước, sau 4 năm dồn sức lại, lại không đạt đến cái
điều mà tự mình đặt ra. Lại nửa chừng dang dở và dập nát như năm 1968? Đó sẽ là
điều mà không ai muốn. Và tất cả sẽ cùng cúi mặt xuống, nói thật khẽ với nhau,
hoặc không nói ra, nhưng đều tự hiểu ngầm, chắc cái điều chờ đợi không bao giờ
đến. Chắc là lúc nào đó, nhiều người đã ngẩn người ra vì không từ bỏ nổi một ý
nghĩ như vậy. Nhưng “đâm lao phải theo lao”. Không có cách nào khác. Không
chừng sau khi bị kìm nén quá lâu, tới lúc không giữ nổi, chúng ta sẽ khóc oà
lên, mình tự thương mình. Số phận dân tộc mình cay đắng là như vậy (cũng như số
phận dân tộc Trung Hoa hiện nay là phải tự lột xác như vậy!). Ít ra, đó cũng là
tâm trạng của một lớp trí thức, tự mình đóng góp sức lực thì không bao nhiêu,
nhưng quả tim quá nhạy.
19/7
Trạm
nằm ngay trên đường hành quân. Trong một ngày nghe dội về bao nhiêu diễn biến
của chiến trường. Buổi trưa, những cậu lính trẻ cậu nào cậu ấy đen, béo lẳn cởi
trần, hoặc chỉ mặc quần đùi áo lót, vác gạo qua, ngồi nghỉ, đấu hót léo nhéo
một lúc. Cái nhìn lúc nào cũng như một sự thách thức, đấy, chúng tôi chỉ có
thế.
Buổi
chiều, lại một tốp lính hành quân qua. Cả ba lô đồ đạc. Giờ tôi mới hiểu tại
sao cái ba lô của họ không lúc lắc, mà đằm mà áp vào vai. Nó đã nặng quá. Và
nhìn tất cả những thứ chất trên ba lô, tôi không khỏi ngạc nhiên. Họ đã để bao
nhiêu công phu, để làm việc đó. Lính mới cả, nhưng trông cậu nào chằng buộc
cũng cẩn thận đến hết mức. Không thể khác được. Chỉ một ngày đi, người ta đã
phải học được cách buộc ba lô và cách buộc nào cũng hợp lý, dù rằng không có
cách nào làm nhẹ cho người ta được một chút.
Những
sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai cả đây. Tốp lính chiều nay đều khoẻ mập.
Một cậu ngồi cạnh mình, cái cổ và bộ ngực nở nang vẩn lên một tí ghét, nhẫy mồ
hôi. Chân tay những ngón rất to mẩn một vài mụn ghẻ, và vì thế trông lại càng
khoẻ. Cậu ta học năm thứ nhất thuỷ sản, nên vẻ còn ngờ nghệch. Cậu ta chỉ cho
mình một loạt đồng đội những giáo viên cấp 3, những kỹ sư, người yếu hơn, và
nghe chừng khôn ngoan hơn. Chỉ mới chặng nghỉ đầu tiên đã phải cho bớt các thứ
dép nhựa tha từ Hà Nội vào. Một cậu chắc do phân công, mang theo một cái cáng
lênh kênh. Lúc đến, trước hết, vứt đánh phịch cái cáng xuống, nghiêng ba lô
sang hai bên, lắc lắc một hồi, mới ngả được ba lô ra. Suốt đợt nghỉ, cậu ta chỉ
tìm cách đi gửi những người khác mấy cái bao gạo của mình. Đỡ tao tí. Cái cáng
tao mang kềnh kệch thế này... Cho đến lúc đi, cậu ta cũng gửi không hết. Làm
sao mà gửi nổi những của nặng nợ như vậy.
Ai đó kể:
Lính năm nay trẻ quá, nghe thấy có B52 là quấn lại, thủ trưởng ơi làm
sao bây giờ. Một ông thủ trưởng phải lấy gậy quất anh em về hầm. Dập cả một
cái gậy.
Lính kể giá ai cũng như thủ trưởng của em, thì mình thắng từ lâu rồi.
Đằng này các bạn ây chả ai tiến lên, em nhìn lại không thấy bạn nào cả.
Nghe cấp trên dặn để địch tới 15m mới bắn. Nhưng một cậu để gần tới, gần
tới thì ngoảnh lại nhưng mà có người, không bắn được thủ trưởng ạ
--“người” đây chính là địch.
Lắm thằng nó (địch) còn bé hơn em cơ, thủ trưởng ạ. Chúng nó rát rát
là...
Từ một cuốn sách nhặt được:
Âu châu không còn tư tưởng bằng những từ ngữ tự do nữa, nhưng bằng những từ
ngữ định mệnh. Khi tôi bảo rằng mỗi người đều cảm thấy mạnh mẽ bàn tay của định
mệnh là tôi có ý nói rằng họ cảm thấy - ít nhất là những lúc nào đó, và hầu như
bao giờ cũng cảm thấy một cách thê thảm - rằng vũ trụ chẳng liên quan gì tới nó
cả. Và khi con người hành động thì mới có cơ khống chế được định mệnh ( A. Malraux).