Về một nhà phê bình văn học làm việc ở tạp chí Văn nghệ quân đội, quê gốc Hà Nội , từng học với Xuân Thiêm ở văn nghệ miền Bắc, Mai Thảo ở văn nghệ miền Nam. Sau
ngày 30-4-1975, -- tôi không nhớ rõ tháng 5 hay tháng 6, -- trong không khí
ngày vui thống nhất có một chuyến xe đi chơi khắp Sài Gòn Đà Lạt, trên xe có mặt
Nguyễn Minh Châu, Mai Thảo, Nhị Ca.
Khi tâm sự về những vui buồn trong việc làm tập Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Hoài Thanh không quên thú nhận là mình đến với nghề một cách bất đắc dĩ và thường rất ngại khi nghe ai đó nói mình là nhà phê bình văn học.
Theo tôi hiểu, trường hợp vào nghề như Hoài Thanh không phải là ít. Bởi nói chung nghề này quá mới lại quá khó khăn, đứng ở ngoài cũng đủ ngại nên không ít người thường lảng tránh và cho đến phút cuối cùng không bỏ được mới phải sống với nó. Sau lứa Hoài Thanh, đến cả lứa sau, tình trạng trên vẫn còn là phổ biến, trong số này, có một người từng là thầy dạy nghề của tôi, người đã ảnh hưởng nhiều đến tôi về nghề nghiệp.
Người đó là nhà phê bình Nhị Ca.
Nhị Ca tên thật là Chử Đức Kính, sinh năm 1926 tại Hà Nội. Sau khi nhập ngũ, ông đã chuyển qua đủ thứ công việc, cuối cùng gần 40 tuổi, mới đi hẳn vào nghề phê bình văn học. Không kể những tác phẩm dịch, không kể tập sách mỏng Viết hồi ký, thì mãi 1972, khi đã 46 tuổi, tập bài phê bình đầu tiên của Nhị Ca mới được in ra. Đó là tập Từ cuộc đời vào tác phẩm. Sự thực số đầu sách của Nhị Ca đâu có nhiều: Về sau, ông cũng chỉ cho in thêm có tập bài Dọc đường văn học (1977) và một cuốn chuyên khảo mang tên Gương mặt còn lại – Nguyễn Thi (1983).
Trong cuộc đời nhiều phần tẻ nhạt của số đông người viết phê bình chúng tôi, kể ra như thế là Nhị Ca cũng đã đạt được cái mức mà những người khoẻ mới làm được. Và nếu tính cả việc làm báo, biên tập, hướng dẫn những người đi sau, thì đây đã là một nhà phê bình có đóng góp, trong đó cái đóng góp chủ yếu của ông, cái phần để lại sâu đậm nhất trong tâm trí chúng tôi, là ông tìm được một cách sống bình tĩnh, thoải mái, một cách sống khá phù hợp với nghề nghiệp và con người mình.
*
Sự làng nhàng của một số phận như Nhị Ca – xin phép được tạm gọi như vậy – bắt đầu từ cái vẻ “làng nhàng” của hoàn cảnh xuất thân. Mỗi khi soát xét lại quá trình trưởng thành của mình, Nhị Ca thường quay nhìn tuổi trẻ với nhiều lưu luyến. Một nếp nhà bình thường nhưng nó vẫn là một cái nhà, mà ở xó xỉnh nào, người ta cũng có bao kỷ niệm. Đời sống an bài đâu vào đấy, trường sở nghiêm chỉnh, đến mức dù là con một công chức xoàng thôi, thì người ta cũng có điều kiện để vừa học vừa chơi mà tiếng Pháp học được vẫn đủ để kiếm công ăn việc làm khi ra đời.
Bảo rằng Nhị Ca là một người thất bại, cũng không hoàn toàn đúng. Sự thực là ông cũng đã có một tuổi trẻ anh hùng. Khi Cách mạng 1945 xảy ra, con người đó vừa đúng 19 tuổi. Cũng như đám bạn bè cùng lứa, ông đã sống những ngày từ 9-45 qua cả năm 1946 một cách náo nức, dù không có một việc gì cụ thể. Khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ, vốn sẵn “có tí văn hoá”, ông được cử vào một đội tuyên truyền văn nghệ, đi các nơi động viên kháng chiến. Thoạt đầu ông thuộc biên chế một trung đoàn, rồi sau mới về công tác ở phòng chính trị một khu. Tại đây, có thời gian Nhị Ca được đề bạt trưởng tiểu ban văn nghệ, thường xuyên thay mặt đơn vị, đến làm việc với Ban chấp hành chi hội Văn Nghệ liên khu I lúc ấy, gồm toàn những nhân vật nổi tiếng Nam Cao, Ngô Tất Tố, Trần Văn Cẩn, Tú Mỡ, Nguyên Hồng v.v…
Không phải chỉ riêng Nhị Ca, mà nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của nền nghệ thuật Cách mạng đã bắt đầu bằng những bước đi tương tự.
Giá như dấn lên một chút, Nhị Ca cũng thành ra một nhà văn nhà thơ hay một nhạc sĩ nào đó. Thì bè bạn của ông, những Xuân Thiêm, Cao Nhị, mà ông cùng học ở trường, những Chính Hữu, Ngọc Tự mà ông cùng công tác, lúc xuất phát nào có gì khác.
Nhưng rồi bệnh tật đã tới.
Việc này về sau Nhị Ca sẽ kể với một người bạn thân tình:
– Mọi người bắt tay tôi thường bảo: “Sao tay ông nóng thế?”, “Mình vẫn làm việc bằng một phổi, làm sao bình thường cho được”. Bấy giờ, bệnh lao còn là một bệnh đáng sợ lắm. Nhiều thằng bệnh không nặng như tôi, song vì bi quan quá, hoảng quá, nhắm mắt chờ vi trùng đục ruỗng lá phổi. Có thằng tự tử. Cả cái lán bệnh mười hai thằng nằm dài như thế này, đã bao nhiêu lần, mười một thằng đi, còn lại mình tôi. Rồi lại bổ sung. Rồi lại mười một thằng ấy đi tiếp. Tôi sống được một phần chỉ tại tôi cố sống, tôi nhất định không tin rằng mình sẽ chết.
Nhị Ca đón hoà bình lập lại (1954) ở một bệnh viện bên Nam Ninh Trung Quốc, sau đó, từ đấy ông về thẳng Hà Nội.
Ông đã trở về với Thủ đô hoa lệ mà cũng là quê hương, là mảnh đất nuôi dưỡng tuổi thơ của mình.
Nhưng dấu vết của trọng bệnh không bao giờ xoá sạch.
Hãy thử tưởng tượng một người ra khỏi cái ốm – mà cũng tức là ra khỏi chỗ chết như thế – lại có dịp trở về với đời sống Hà Nội những năm 1955-56 – một Hà Nội có đèn điện, có nước máy, có những biệt thự bên bóng cây xanh, một Hà Nội vẫn giữ được những nền nếp thanh lịch, mà hồi ở kháng chiến, giữa cái u tì của núi rừng, người ta thường nắc nỏm ao ước.
Có hai tâm trạng nảy ra trong Nhị Ca lúc ấy: vừa sung sướng nhớ lại tuổi trẻ êm đẹp, vừa đau đớn vì nay mình đã là người ngoài cuộc, không còn sung sức để đóng góp cho đời sống, mà cũng là để tận hưởng đời sống.
Một lần nào đó, Nhị Ca có dịp đến dự một buổi biểu diễn ca nhạc ở Nhà hát lớn. Người diễn viên lộng lẫy dưới ánh đèn sân khấu kia, hôm qua, từng là cô gái quê được người cán bộ này dìu dắt, bảo ban, rồi đề nghị cấp trên cho đi học bên nước bạn. Nhưng làm sao mà bây giờ cô ta còn có thì giờ đoái hoài tới người khán giả ốm yếu bệnh tật, vừa ở bệnh viện trở về và đã bị cắt hẳn một bên phổi!
Đứng nép sau hàng cột, bần thần một hồi, Nhị Ca lẳng lặng trở về với căn phòng làm việc của mình, ở Thư viện Quân đội. Kể ra có người từng cũng bệnh tật nặng nề như Nhị Ca, cũng bị lao, cũng sang Trung Quốc chữa bệnh, song khi về nước, đã làm một cuộc hồi sinh, như con phượng hoàng bay lên từ đám tro tàn vùng vẫy trở lại: đó là trường hợp Chế Lan Viên. Nhưng làm sao mình có thể so sánh với tác giả Điêu tàn cho được – Nhị Ca tự nhủ, và cùng với việc lo lấy vợ, sinh con, chỉ còn nghĩ rằng may lắm là được mầy mò giữa các trang sách.
Từ đấy, ngòi bút dịch thuật Nhị Ca bắt đầu hoạt động đều đặn.
Rồi cũng nhân ở thư viện, ông viết vài bài đọc sách gửi đi các nơi. Bấy giờ lực lượng văn học trong quân đội, dù đã qua tám năm kháng chiến, vẫn chưa có điều kiện để đào tạo những nhà nghiên cứu lý luận. Nói cụ thể hơn vào khoảng những năm 1960-62 gì đó, khi mà Văn nghệ quân đội ra công khai đã được vài năm, cần có người giữ gôn mục phê bình trên báo thì cũng chỉ có Nhị Ca là ứng cử viên duy nhất, và ông đã trở thành một thành viên chính thức của Văn nghệ quân đội, ngay từ trước khi xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại (5-8-1964). Con đường Nhị Ca đến với phê bình văn học có mấy đặc điểm: 1/ Ông đến với nó hơi muộn; 2/ Ông đến trong cái tư thế của một người đã lữa, đã chán ra rồi, đã cam tâm chấp nhận rằng mình thất bại trong việc đời, giờ làm gì thì cũng chỉ coi là một nhiệm vụ được giao phó.
Trong bài viết mang tên Ý nghĩa phê bình văn học, Nhị Ca tóm tắt quan niệm phê bình văn học của mình như sau:
“Từ trong nguồn gốc sâu xa của nó, sáng tác và phê bình chỉ là hai mặt nhất trí của một nhu cầu tinh thần: sáng tác là hành động, phê bình là nhận thức và lương tri của các hành động đó.
… Phê bình ở ta luôn luôn tìm cách khẳng định những điều tốt đẹp có thực, những đóng góp dù nhỏ nhoi của những người làm ra của cải tâm hồn.
… Phê bình cũng như sáng tác đều đại diện cho lợi ích xã hội và phê bình rất có quyền và cần phải đưa đơn đặt hàng cho nhà văn, hướng nhà văn vào việc góp phần giải quyết những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh cách mạng”.
Đây cũng là những quan niệm được ông tuân theo mỗi khi cầm bút. Với ông, dù mỗi bài phê bình có ký tên ai đi nữa, thì đấy vẫn là tiếng nói của dư luận, của chỉ đạo, và sau đó mới là ý kiến riêng, yêu thích riêng của cá nhân. Vậy thì phải tỉnh táo, lý trí phải vững, dù có bị chê một tí cũng chẳng sao. Trên cương vị một người phụ trách công tác lý luận phê bình của Văn nghệ quân đội trong những năm ấy, Nhị Ca thường phải lo mấy loại bài sau đây:
Một là những khi các sách sáng tác, lý luận của các lãnh tụ được in ra, như thơ Hồ Chủ tịch, thơ đồng chí Sóng Hồng, thơ Tố Hữu, tạp chí cần có tiếng nói của mình; hoặc những khi kỷ niệm 25 năm, 30 năm ngày thành lập Quân đội, tạp chí cần có bài tổng kết một giai đoạn v.v… và v.v…
Hai là những khi có các sáng tác của anh em ở chiến trường gửi ra, hoặc một số đồng chí ở tạp chí đi công tác về viết được những cuốn sách tốt, cần khẳng định một phương hướng, một cách làm việc.
Trước những yêu cầu của cơ quan, Nhị Ca bao giờ cũng vui vẻ đón nhận, và viết bài với tất cả tâm sức của mình. Ông đã viết về Những cuốn sách của Bác Hồ dẫn chúng tôi đi, về Những trang thơ hùng tráng và thiết thực. Ông đã viết về văn xuôi Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Hữu Mai, Nguyễn Minh Châu, về thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật v.v…
Trên đây là mấy nét sơ lược về cuộc đời Nhị Ca. May mắn cho tôi là chính lúc Nhị Ca đã vào tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” và cốt cách của nhà phê bình nơi ông đã ổn định, thì tôi được làm việc nhiều với ông. Ban đầu là mối quan hệ cấp trên cấp dưới rõ rệt, nhưng ngoài cái đó ra, giữa chúng tôi còn có tình người, và không phải chỉ là tình đồng nghiệp thông thường mà là trong cái nghề người ta biết mọi nóng lạnh của nhau: nghề cầm bút. Rồi đến một lúc nào đó, tôi bắt đầu nhận ra trước mặt mình là một nhân cách độc đáo, thú vị. Tôi không dám chắc mình đã hiểu hết người đồng nghiệp lớn tuổi ấy, chỉ biết mang máng là bên cạnh cái phần bề nổi có phần chìm, thậm chí có thể có nhiều Nhị Ca trong một Nhị Ca.
… Nhưng đó là một câu chuyện hơi dài dòng một chút.
*
Phải thú thực là với sự non dại của mình, thời gian mới gặp Nhị Ca, tôi chưa thể thú ông ngay được. Hồi tưởng lại mấy năm 1966-67, khi thập thò gửi những bài viết đầu tiên đến cho Văn nghệ quân đội, và thường tới làm việc với Nhị Ca ở chỗ ông sơ tán – nó chính là căn phòng trên gác hai 104 Nguyễn Thái Học, nơi gia đình ông ở – tôi không nhớ gì lắm mà chỉ mang máng cảm thấy sao mà ông muốn răn dạy mình quá nhiều, hình như ông hơi công chức, ông không có những bột phát tự do của người làm nghề sáng tạo. Tới khi tôi được xếp về ở cùng phòng với ông trong cái buồng ngách phía nam ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, thì sự ngờ ngợ của tôi ngày càng trở nên rõ rệt.
Các bạn hãy thử tưởng tượng, hồi ấy là những ngày cuối 1968, đơn vị vừa từ sơ tán chính thức trở về Hà Nội ít lâu. Sau một lúc làm việc buổi sáng, phần lớn lớp cán bộ lâu năm như Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Nguyễn Khải, Hải Hồ… đều về gia đình riêng ăn cơm trưa, chỉ còn một vài anh em gia đình ở xa hoặc có hoàn cảnh đặc biệt, như Xuân Sách, Nguyễn Minh Châu, kể cả Nhị Ca và tôi ở lại, ăn bếp tập thể.
Sau này, tôi mới biết rằng đấy là nếp sống đã sẵn có ở Văn nghệ quân đội từ trước chiến tranh và sau mấy năm sơ tán, mọi chuyện có vẻ đang được an bài trở lại thành thử không ai bỡ ngỡ gì hết. Riêng đối với tôi lúc ấy thì không phải thế, thường xuyên tôi sống trong tâm trạng bồn chồn, và cảm thấy ngôi nhà như quá rộng, căn gác như quá vắng. Tôi chỉ vừa được chuyển về đây làm việc hồi đầu năm; vả lại địa điểm mà tôi đến nhận công tác là một làng quê Sơn Tây, còn đây là Hà Nội, là cái ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, mà hồi đi học, tôi chỉ dám ngước mắt nhìn thật nhanh chứ không bao giờ dám nghĩ được bước chân vào sống trong đó, bởi vậy làm sao tôi không bỡ ngỡ cho được. Nhưng điều quan trọng khiến tôi sốt sáy không yên còn là ở một điều khác: về đây nghĩa là tôi được sống với những người mà thời đi học, tôi từng ước ao; tôi sẽ được làm cái nghề mà trước đây tôi mơ tưởng, tôi sẽ được dự vào sinh hoạt chung của giới sáng tác văn học mà xưa nay tôi chỉ nghe hóng và coi là cả một sự bí mật ghê gớm. Ôi! mới ngây ngô làm sao, những sốt sắng của tôi lúc ấy!
Rất nhiều trưa, tôi đã không ngủ, bụng dạ bồn chồn, loanh quanh đi lại trong hai tầng gác mênh mông, rồi lại về nghĩ ngợi vẩn vơ và dù không làm gì nữa, thì cũng như đám trẻ con hay la cà buổi trưa không sao ngủ nổi.
Chính ở điểm này, mà tôi nhận ra sự khác biệt đầu tiên giữa mình với người đồng nghiệp cao tuổi hơn, người phụ trách trực tiếp và cũng là người ở cùng phòng với mình.
Hầu như Nhị Ca hoàn toàn vô tâm, và cứ sống như một cái máy. Trưa nào, ông cũng đánh một giấc đàng hoàng, trở dậy, mang chậu xuống dưới nhà, rửa ráy, rẽ đầu ngôi đâu vào đấy, rồi mới bắt tay vào công việc. Lại ví như khi mà thỉnh thoảng, cái buồng của bọn tôi trở thành địa điểm để những Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Sách đến tụ họp rồi tán phét… thì thái độ của chúng tôi cũng khác hẳn nhau. Trong khi tôi hồi hộp lắng nghe, sẵn sàng quên cả ăn, quên cả khách khứa để ngồi nghe, và chỉ sợ mọi người ra về quá nhanh mà mình không nghe được những điều thú vị, thì Nhị Ca khá đủng đỉnh. Lúc có thì giờ rỗi rãi, ông cũng ngồi đấy nhưng chỉ ngồi để tủm tỉm cười thầm, hoặc thỉnh thoảng đế vào một hai câu cho vui. Và có việc gì vội đi, là ông cho mọi người giải tán ngay, rồi dứt ra thật nhanh, chứ không một thoáng lưu luyến.
Khỏi phải nói, trước một thái độ sống mực thước đều đều, chỉ biết tuân theo những nhịp điệu có sẵn như thế, tôi không hiểu nổi. Cũng may với kinh nghiệm sẵn có, Nhị Ca không lấy đó làm lạ, vẫn từ tốn tìm cách dạy cho tôi những điều mà càng về sau này, tôi càng thấy là thiết yếu.
Tôi không khách sáo tí nào trong việc dùng chữ dạy ở đây cả. Thấy bọn tôi có vẻ viết được, một cơ quan chuyên trách như Văn nghệ quân đội lấy về làm báo và trong ánh mắt mọi người – những nhà văn nổi tiếng – hầu như luôn luôn có sự ưu ái cùng những khuyến khích: cố lên, cố mà viết!
Chết một cái là hầu như chúng tôi chỉ được khuyến khích để tiến lên, gạt phăng mọi trở ngại mà lập nên những kỳ tích, nhưng còn lùi về ra sao, sống bình thường trong nghề này thế nào, thì không có luật lệ nào quy định, mà hầu như trong các buổi họp cũng không bao giờ có ai nói tới.
Nếu tôi không nhầm, không ít tài năng trẻ bọn tôi, bởi thiếu sự bảo ban cặn kẽ như thế này, nên đã lầm lạc, mà về phần tôi, nếu như có khôn ra được nào, cũng là nhờ có nhìều người, trước tiên là Nhị Ca, thường xuyên dội cho những gáo nước lạnh.
Chẳng hạn năm ấy, Phạm Tiến Duật là một nhà thơ, tiếng tăm lừng lẫy. Từ chiến trường trở về, anh được chào đón như một tài năng lớn, có người bạo miệng bảo đó là một hiện tượng giống như Apollinaire của nền thơ Pháp hiện đại. Ai cũng yêu chiều kính nể, ai cũng dạt ra để nhường anh đi. Trong chiến tranh, đồng tiền không có sức mạnh vạn năng như bây giờ, và nhu cầu về tiền của mọi người cũng chẳng là bao, nhưng Duật cũng đã được nhiều người đưa tiền hoặc tặng cho cái đài Orionton bấy giờ thuộc loại vật kỷ niệm vào hạng quý hiếm.
Có điều, với thói quen thời chiến, và sự vô tư của tuổi trẻ, Duật đối với tiền rất chểnh mảng, vứt mỗi chỗ một ít, đến lúc sạch túi cũng không biết đã tiêu vào những việc gì nữa!
Mọi người không ai lấy làm ngạc nhiên, chỉ riêng Nhị Ca là nói với tôi: “Loại nghệ sĩ tài tử, loại nghệ sĩ lang thang không cần biết đến đồng tiền, đi đến đâu cũng có người nuôi thực ra là mẫu người của các thế kỷ trước.
Ở thời này, bọn thiên tài như Picasso, Charlie Chaplin nhìn kỹ đều là bọn kinh nghiệm lõi đời, kiếm tiền đã bợm mà giữ tiền cũng giỏi. Ông Duật nhà ta mới nho nhoe có mấy đồng bạc đã không biết giữ lại vung tay quá trán, rồi ra còn làm được cái gì? Cái cách coi thường đồng tiền như thế, tưởng là nghệ sĩ, là hơn đời lắm, thực ra là một cách sống rất cũ”.
Cũng là tận tuỵ với nghề nghiệp, nhưng trong khi bàn về nghề, mọi người thích nói tới sự cao sang, thì Nhị Ca thích nói những chuyện thiết thực, nói chung gần như ông không hề bị cái danh hiệu nghệ sĩ lừa dối, mà luôn coi đây là công việc.
Theo ông, không có gì sai, nếu bảo sự sáng tác là thiêng liêng trọng đại, cần có cảm hứng, cần sự xuất thần.
Nhưng vẫn theo lời Nhị Ca, trong thời này mà nói, nhất lại là trong chiến tranh, còn bao nhiêu việc trọng đại, có ý nghĩa quyết định bằng mấy. Người ta còn phải lo gạo, lo đạn, lo cho bộ đội có tinh thần chiến đấu v.v… Vậy thì hãy xếp cái thảng thốt của anh lại, đừng có tố nó lên, và nhất là đừng có vớ vẩn nói chuyện không đâu, hãy lo công việc cụ thể đi.
Vâng, đừng có vớ vẩn nói chuyện đâu đâu, đấy là lời chê trách nặng nhất mà Nhị Ca dành cho những cơn nóng lạnh của chúng tôi. Ông không thích kiểu vớ vẩn ấy, ông thích nói tới phần trách nhiệm mà chúng tôi phải gánh vác. Công việc cơ quan ông làm đều đều, đến mức, không cần tinh ý lắm, nhiều người cũng nhận ra rằng có lẽ những công chức ngày xưa cũng mẫn cán như thế. Lại nữa, một trong những điều ông hay dặn dò tôi: phải công bằng trong đánh giá. Trên tạp chí có tồn tại những cách viết khác nhau, như trong cuộc sống mỗi người có cách sống khác nhau thì cũng là chuyện tất nhiên, tác giả nào có độc giả riêng của người ấy.
Trong số những kỷ niệm về quan hệ Nhị Ca với những người sáng tác, tôi còn nhớ như in câu chuyện sau đây. Một lần, do vô tình thế nào đó, Nhị Ca làm cho nhà văn Hồ Phương cảm thấy bị chê.
Hồ Phương giận lắm. Khi cho in cuốn Kan Lịch, không tặng Nhị Ca nữa.
Nhưng Nhị Ca vẫn mượn Kan Lịch về đọc tới trang cuối cùng, sau đó, bảo bọn tôi đi đặt bài viết khen ngợi. Ông bảo riêng với tôi: “Trong khu vực sách về người thật việc thật, Hồ Phương vẫn là tay bợm nhất”.
Tôi chưa bao giờ kể lại chuyện này cho Hồ Phương nghe, song xem đây là một bài học đối với công việc.
Chăm chỉ làm vậy song được cái không phải Nhị Ca cay nghiệt bắt người ta hùng hục ngày tám tiếng như thợ đấu. Một trong những thói xấu của tuổi trẻ – tuổi trẻ bọn tôi năm ấy và những thế hệ trước – là đồng thời với sự thiêng liêng hoá nghề nghiệp, lại thường hơi có vẻ khổ hạnh, lúc điên lên chỉ nghĩ đến công việc, không biết nghỉ ngơi để giữ sức lâu dài.
Dường như Nhị Ca đã có đủ kinh nghiệm về chuyện này rồi, khoảng trống từ một lá phổi bị cắt trong ngực đã nói với ông đầy đủ tất cả, nên ông chỉ nhìn bọn tôi mủm mỉm, và lựa lúc tôi có vẻ nghe được, ông mới xa xôi buông mấy lời khuyên bằng cách kể chuyện mình đã làm việc ra sao.
Một lần sau khi tặng tôi tập sách dịch, Nhị Ca bảo:
– Ồ, có gì đâu, hè năm ngoái cơ quan cho đi nghỉ ngoài Đồ Sơn, tôi mới mang bản tiếng Pháp đi, cùng với cuốn tự vị. Lội ra một quãng ngâm nước mặn và nhảy sóng chán, lên vừa lau khô người là bắt tay dịch, rồi lại nhảy tùm xuống nước, rồi lại lên dịch, suốt ngày vừa nghỉ vừa dịch độ một tháng là hòm hòm rồi, về đọc lại và sửa chữa là nộp bản thảo chứ gì.
Năm nay, bên nhà xuất bản Thanh Niên nó lại đang nhờ quyển nữa, rồi cũng phải xin đi nghỉ để trả cho xong nợ mới được.
Vừa làm vừa nghỉ, chơi trong lúc làm, làm trong lúc chơi, lối sống của Nhị Ca, tóm lại là lối sống của một người từng trải và biết tính chuyện đường dài có lui có tới. Hàng tuần, sau những giờ miệt mài bên bàn làm việc đến chiều thứ bảy, nếu không có gì bận lắm, Nhị Ca đến Câu lạc bộ quân nhân.
Nhìn ông ngồi trước vại bia mới thấy hết vẻ bình thản và lòng yêu đời của ông.
Tuy Nhị Ca không nói gì nhưng cả con người ông, cả nét mặt ông như muốn kêu to lên: “Tôi không đòi hỏi gì hơn! Như thế này đã là mãn nguyện lắm rồi!
Được sống trên đời này đã là sung sướng lắm rồi”.
Chính đó là nhận thức chủ đạo của ông về đời sống, điều không những ông thành tâm hướng theo mà còn muốn mọi người cũng tin theo như vậy.
Sở dĩ bảo sự tỉnh táo là phẩm chất chủ yếu làm nên định hướng phê bình văn học của Nhị Ca, bởi trước khi có quan hệ với cách viết của ông, nó quan hệ tới cuộc sống của ông nữa.
*
Là một nhà văn nổi tiếng, song Tô Hoài thường lại có sự cảm thông riêng với những khốn khó của nghề cầm bút: không ít phen ông đã để công viết về những đồng nghiệp bất hạnh trong viết lách, tức những người ham muốn nhiều mà lực bất tòng tâm, sống lom đom nhợt nhạt, kéo lê cả cuộc đời giữa giới sáng tác.
Có lẽ, là do được sự cổ vũ ngấm ngầm của Tô Hoài mà có lần nhân nói chuyện với ông, tôi đã buột miệng:
– Đúng là có thuộc loại như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, hay Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu thì hãy nên trở thành nhà văn! Chứ còn đa số chúng tôi, cơm vãi cơm rơi, giá có nói tên lên cũng chẳng ai người ta nhớ tới một tác phẩm nào của mình, cả một đời sống với văn chương vẫn hoá ra đứng ngoài, lắm lúc nghĩ lại chua xót lắm.
Quả thực sau mấy chục năm dang dở với nghề, cho đến những năm tuổi gần sáu chục này, tôi vẫn nghĩ thế!
Tuy nhiên, nhìn đi nhìn lại chung quanh, thấy những nhân vật gọi là hàng đầu của sinh hoạt văn học một thời, thật ra chỉ độ mươi người – còn ra loanh quanh cũng loại ẩm ương như mình.
Chính số đông này làm nên vẻ tấp nập thông thường của đời sống văn chương.
Vả chăng sẽ là còn phiến diện, nếu đánh giá một con người, mà chỉ tính đến tài năng.
Trong khi tài năng phụ thuộc không ít vào những năng khiếu thiên bẩm thì giá trị của con người còn phải được đo tính căn cứ vào cái nhận thức cơ bản của người đó về cuộc đời, và về chính mình, cái bản lĩnh của con người đó trong việc tìm ra và theo đuổi một cách sống thích hợp với bản thân, tiếp theo là cái nghị lực để đi đến cùng trên con đường đã chọn.
Còn nhớ Xuân Sách, cây bút tinh đời, đáo để, kẻ đã làm ồn một dạo bởi những bài thơ chân dung viết về các đồng nghiệp, Xuân Sách đó có lần nửa đùa nửa thật nói với Nguyễn Minh Châu (vốn là cùng xuất phát, nhưng sau đi được xa hơn nhiều, so với Xuân Sách):
– Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
Dường như Xuân Sách không chỉ nói riêng với Nguyễn Minh Châu, mà còn nói chung với nhiều người khác.
Riêng với tôi, một người làm phê bình, lại thích viết về cuộc đời các nhà văn, thì mấy lời tâm huyết ấy của Xuân Sách là cả một gợi ý.
Tôi cũng rất muốn vẽ cho ra khuôn mặt những con người không chói lọi trong nghề, những người thoạt nhìn mờ mờ nhân ảnh mà xét kỹ lại hoá ra rất bản lĩnh.
Nhận ra một sự thực – ở đây là nhận thức thấu đáo bản chất một tính cách – luôn luôn là thú vị.
Nhưng nếu như trong quá trình nhận thức ấy, bản thân mình có sự tự vượt lên, tức ban đầu hiểu về người ta thế này, sau lại nghĩ được khác đi, nghĩ sâu hơn và tìm ở người mình quen những khía cạnh mới, thì sự thú vị lại càng tăng lên gấp bội.
Câu chuyện về Nhị Ca ở đây, là nằm trong cái mạch đó.
Từ lúc nào không rõ, tôi cảm thấy trước mặt tôi không chỉ có một con người nặng chất công chức, làm đều đều việc hàng ngày, mà còn có một nghệ sĩ với niềm tin riêng và cách sống riêng. Trong sự gắng gỏi để sống, bắt đầu từ bản năng thích ứng, con người đó dần dà hun đúc cho mình những lý lẽ để tin theo, và bởi lẽ sự gắng gỏi quá lớn, cuộc sống giành được phải qua quá nhiều dụng công, nên cái chất ngọc hun đúc được kia, cũng không phải bình thường, mà là một cái gì độc sáng, quái lạ. ý tôi muốn nói đến một chút hư vô ở Nhị Ca, hư vô với nghĩa chấp nhận đời sống, vượt qua mọi quy phạm cứng nhắc thông thường để quan niệm rằng, đời sống này chẳng bị ràng buộc bởi cái gì hết, chỉ riêng nó là có nghĩa, và làm sao tồn tại được, thế là anh thắng rồi, anh có thể yên tâm với cái anh có. Với những ai kia, hư vô là chuyện đâu đâu, song với Nhị Ca, hư vô chỉ có nghĩa như vậy. Cái điều thoạt nhìn tưởng như xa xỉ, hoá ra lại đã nảy sinh một cách tự nhiên, nó là một thoáng sương khói mông lung mà mọi người bình thường đều cảm thấy, chẳng qua không gọi tên ra rành mạch đấy thôi; nói cách khác, nó là những thoáng triết lý mà phàm còn sống người ta còn cần tới sự trợ giúp của nó. Như ở Nhị Ca mà tôi đang kể, một thoáng hư vô là rất cần cho một người ốm và từng cảm thấy bất lực như ông, nên trong đời sống hàng ngày, hầu như không có việc gì ông không viện dẫn tới nó.
Trở lại câu chuyện hàng ngày Nhị Ca sinh hoạt và làm việc đều đều như một cái máy.
Mới đầu, tôi tưởng không gì dễ hơn, chỉ mãi về sau mới hiểu được rằng không gì khó hơn chuyện đó.
Dường như đã nhận ra sự tỉnh ngộ của tôi – nghĩa là biết tôi đã công nhận ý chí của mình, trong việc tạo nền nếp cho đời sống và một thoáng hư vô sau cái nhịp sống mực thước ấy – Nhị Ca tâm sự:
– Các ông nghệ sĩ cứ hay vớ vẩn nói chuyện hứng thú. Từ góc độ một thằng đau ốm như tôi mà nói, thì tất cả là lý trí. Cả đến ăn cũng phải có lý trí. Khốn nạn, đang ốm, nhiều khi có thấy ngon lành gì đâu, nhưng cần phải ăn là ăn, tự nhồi mình như nhồi vịt vậy. Rồi sẽ thấy thích và quan trọng hơn rồi sẽ thấy khoẻ.
Sau sự kiện Mậu Thân, từ đầu những năm 70 khi cuộc chiến có chiều kéo dài, và đời sống thời chiến bộc lộ nhiều điều không như ý muốn, anh em gặp nhau thường có ý kêu ca rằng sao dạo này con người như ác với nhau quá, tệ bạc với nhau quá, Nhị Ca bác đi một cách đơn giản:
– Chẳng có sự suy vi nào như các ông nói cả. Chẳng qua xếp hàng mua mì mua thịt khó một chút, điện nước thường xuyên chập chờn một chút, nên người ta dễ sinh ra cáu giận rồi độc ác vậy. Mai kia, mọi chuyện dễ dàng, người ta lại xởi lởi với nhau ngay đấy mà.
Luôn luôn, ông trở về với mình nhưng cũng luôn luôn, ông nâng mọi chuyện lên, thành những nguyên lý:
– Xưa nay tôi vẫn thấy cần quan niệm như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vẫn dạy, tức là hoàn cảnh tạo nên tính cách con người. Khi tôi còn khoẻ, tôi làm đủ việc, tôi phụ trách đội cổ động tuyên truyền cho kháng chiến, tôi làm trợ lý, tôi đi họp về văn nghệ rồi tôi làm thơ, thơ in đá ấy mà, có ra gì đâu, nhưng mà đã in ra, tóm lại là tôi đủ việc như mọi người. Còn bây giờ tôi ốm thì tôi làm việc theo kiểu bây giờ, không thể phung phí sức lực như những người đang khoẻ và chính mình lúc đang khoẻ. Ông chưa thể hiểu hết tâm trạng của một người ốm nặng trở về, đơn giản là vì ông chưa ốm, thế thôi. Nhưng ông phải nhớ xưa kia, tôi cũng như ông và nếu rơi vào hoàn cảnh tôi, ông cũng sẽ như tôi. Chúng ta chẳng có gì là khác nhau cả.
Trước một con người có tính cách ổn định như Nhị Ca, ổn định trong cái thế nhiều tầng lớp đa dạng khuất khúc của nó, không phải chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà văn khác ở Văn nghệ quân đội hồi ấy cũng có những điều phải suy nghĩ. Một trong số đó là Nguyễn Minh Châu.
Tác giả Cửa sông, Dấu chân người lính hồi ấy còn ở tập thể nên những lúc rỗi rãi cũng ngồi đấu hót đủ chuyện linh tinh với bọn tôi.
Và Nguyễn Minh Châu đó từng đùa cợt mà doạ:
– Lúc bí, thể nào mình cũng lôi mấy thằng phê bình ra mà viết mới được. Thò tác phẩm nào của mình ra chúng nó cũng nhận xét với lại phê phán, rồi không chỉ viết về cuốn tiểu thuyết hay tập truyện ngắn, mà còn viết về cả con người mình ở đằng sau tác phẩm nữa. Thế thì tại sao, mình không viết một truyện, lấy nhân vật chính là Nhị Ca, một truyện khác lấy nhân vật chính là cái thằng Nhàn này này.
– Viết ra sao? – Tôi hỏi lại.
Dường như chưa quên những sốt sắng ngây ngô hồi nào của tôi, nó đối lập với bao nhiêu từng trải, bao nhiêu lõi đời của Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu nói một cách hình ảnh:
– Để viết riêng về Nhị Ca không thôi, tôi sẽ tả một nhân vật sống giữa căn phòng được kẻ ô cẩn thận và nhân vật đó sẽ luôn luôn vừa đi vừa xác định:
“A, mình đã đi đến mi-li-mét này rồi!”
“A, còn đang thiếu mấy xăng-ti phải cố cho kịp!”
Còn như để viết về sự oái oăm của cuộc đời, tôi sẽ tả một căn phòng có hai thằng một già một trẻ. Thằng trẻ đêm ngày thảng thốt đi lại, đấm cửa thình thình. Còn thằng già sẽ đắp chăn kín đầu, và chỉ thỉnh thoảng, bị quấy rầy quá mới thò cổ ra mà tuyên bố rằng: “Chỉ có điên mới lúc nào cũng húc đầu vào tường để tìm tự do rồi lại mình túm ngực mình băn khoăn, không hiểu rằng mình đang hạnh phúc hay bất hạnh”.
Giữa người với người, sự hiểu được nhau, không phải là lúc nào cũng dễ dàng, có điều suy cho cùng, ai thế nào đến vợ con mình cũng biết, nữa là các đồng nghiệp viết văn. Không phải là tôi quá đề cao nghề này, song những bài học cụ thể tôi học được ở Văn nghệ quân đội, dạy tôi như vậy.
Trong số những cây bút chủ lực của cơ quan tôi năm ấy, Nguyễn Minh Châu là một người rất có tài, và có năng khiếu. Cách sống của ông Khúng, dĩ nhiên, là có khác cách sống của Nhị Ca, bởi thế lúc hứng lên Nguyễn Minh Châu không khỏi có ý chế giễu cái tính quá công chức của ông bạn lớn tuổi. Nhưng có dịp cùng sống với cả Nhị Ca lẫn Nguyễn Minh Châu, tôi biết là từ chỗ xa lạ, dần dần Nguyễn Minh Châu cũng đã nhận ra cái bản lĩnh hơn người của Nhị Ca. Sau lưng Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu thường không ngớt lời khen: “Ở cái nhà này, không thằng nào lọc lõi bằng Nhị Ca”. “Cứ bảo ông Khải lạnh lùng với lại hoài nghi! So với Nhị Ca, Khải còn trong sáng chán, không biết chừng có lúc còn phải mang giấy bút đến mà nghe Nhị Ca giảng kia đấy”. “Tìm tòi cái gì, cuối cùng chúng ta sẽ rơi vào sự biết điều mà cũng là cái trung dung của lão Nhị Ca hết! ”. Ấy, sở dĩ cái giọng của Nguyễn Minh Châu mỗi khi nói về Nhị Ca ngày càng có vẻ dịu dàng hơn ưu ái hơn, lý do là vì như thế.
*
Lúc còn làm việc bình thường, Nhị Ca sẵn có thái độ trân trọng với lớp người đi sau. Ông tin khi mình không làm việc nữa, sẽ có những người khác làm, và nửa đùa nửa thật, ông bảo biết đâu, khi mình gặp chuyện khốn khó, những người đó chả giúp mình được ít nhiều!
Những tưởng đó chỉ là những điều Nhị Ca vui mồm nói chơi nào ngờ, trong đời ông, lại có lúc trở thành sự thật: Sau khi từ Tạp chí Văn nghệ quân đội chuyển qua Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ít lâu, Nhị Ca bị đứt một bên mạch máu não, phải nằm liệt một chỗ, trong khi bản thảo cuối cùng, cuốn Gương mặt còn lại – Nguyễn Thi còn dang dở.
Một đồng nghiệp trẻ của ông, anh Ngô Thảo, đã gánh vác việc hoàn chỉnh chuyên khảo này của Nhị Ca, nhờ đó, cuối năm 1983 cuốn sách được in ra, trong sự vui mừng, hơn nữa, sự thanh thản của Nhị Ca: những gì làm được, ông đã làm, có thể yên tâm ra đi.
Suốt bốn năm nằm trên giường bệnh, Nhị Ca vẫn tỉnh táo nghỉ ngơi, ăn uống (ăn uống lúc này lại là một công việc), chịu đựng mọi đau đớn, sẵn sàng chấp nhận những tai hoạ sẽ tới. Và khi có điều kiện, ông đọc sách, suy nghĩ về đời sống, nhớ lại mọi vui buồn trong hơn năm chục năm làm người của mình. Nhiều bạn bè đến thăm ông không khỏi ngạc nhiên, bởi thấy người bệnh còn quá tỉnh, thân thể thì héo tàn đi, nhưng đầu óc sáng suốt thêm, không oán, không giận, từ tốn hỏi chuyện anh em đang khoẻ đang làm việc. Có hôm ông đùa bỡn bảo tôi: “Có phải đứa nào cũng hỏi thăm rằng Nhị Ca đã chết chưa phải không?”. Lần khác, nghe nói hai người bạn trẻ một nam, một nữ tính chuyện gắn bó với nhau, mà lại ngượng ngùng, giấu diếm, ông nhắn: “Về bảo với chúng nó, đừng tranh cướp của người khác, đừng phạm pháp là được, còn bằng tài năng của mình, bằng lao động của mình, ai thêm được một bát cơm ngon cứ ăn, một chén rượu ngon cứ uống, một mối tình tốt đẹp cứ hưởng. Nhân danh một thằng sắp chết tôi muốn nói với mọi người như vậy”.
Trong giọng nói đã lạc đi của ông, trong nụ cười nhiều khi không thành của ông, trước mắt chúng tôi vẫn là một Nhị Ca tha thiết với đời sống này. Lại nhớ những kỷ niệm về cuộc sống một thanh niên Hà Nội cũ, mà lúc vui chuyện, ông từng kể. Lại nhớ những lúc mắt ông sáng lên bên chén rượu. Lại nhớ những lúc ông sau giờ làm việc, ngất ngưởng cái mũ vải trắng trên đầu hoà nhập một cách tự nhiên vào đường phố Hà Nội, và sau 1975 là đường phố Sài Gòn, hoà nhập vào đó, để rồi mất hút đi, với cuộc đời riêng trong đó hết sức thoải mái.
Ông bảo tôi nếu còn khoẻ, sau Nhà thờ Đức bà Paris, ông rất muốn dịch tập Décaméron (tức Mười ngày) của Bocaccio, một cuốn sách ca ngợi hạnh phúc trần tục ngay trong cuộc đời chúng ta đang sống.
Nhị Ca không làm hết mọi điều ông đã ước muốn, song tinh thần của cái cách sống mà ông tuân theo, chúng tôi thấy cần ghi nhận, bởi ngày càng thấy trong sự dễ dàng của nó, không chừng đó là cách sống phù hợp với đám đông chúng sinh mặt trắng là tôi, là anh, là rất nhiều kẻ tài năng làng nhàng chúng ta. Có phải tự con người thích triết lý nọ kia đâu, chẳng qua đời sống thúc ép nên người ta phải cố nghĩ ra những lý lẽ để tự vệ; trong thuở sơ khai của nó, các triết lý đều hình thành như vậy, và bao giờ nó cũng được tiếp nhận xứng đáng, rồi vận dụng tuỳ theo hoàn cảnh.
Bài đã in trong tập Cây bút đời người , 2002
Cuốn sách này được Trần Hữu Dũng đưa lên mạng Viet-studies
từ khoảng 2004
Trong bản in lại lần này có một sửa chữa nhỏ,
nhà thơ C được gọi đích danh là Phạm Tiến Duật.