Hiện thị trường sách
đang chứng kiến sự xuất hiện hàng loạt hồi ký hay tự truyện của các nhân
vật trong các ngành nghệ thuật.
Xin giới thiệu lại với
bạn đọc blog hai viết của tôi xoay quanh chủ đề nhà văn và thể hồi ký,
một liên quan tới Nguyễn Khải và một Tô Hoài. Cả hai đều đã được đưa vào
tập Phê bình &tiểu luận – một
thứ tuyển tập của tôi làm năm 2009
TỔNG KẾT CUỘC ĐỜI
THEO
CẢM QUAN CỦA MỘT THỜI LÃNG MẠN
Một vài nhận xét về tiểu thuyết
Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải
Ở tuổi bảy mươi, một người cha trong một gia đình
xưa nay vốn êm ấm, tự nhiên có bà vợ ngày ngày day dứt trì chiết
ông, nghi ngờ rằng ông không thương yêu gì bà, không hiểu hết công
lao hàn gắn của vợ con, lại có lúc còn lơ mơ nhìn theo
những bóng dáng qua lại ngoài đường. Cái đau ở chỗ ông già nói ở đây vốn là một
người đứng đắn, mẫu mực trong việc chăm sóc cửa nhà. Ông cảm thấy mình “không
xứng” với cái bi kịch mà mình đã rơi tõm vào đó. Con người suy
nghĩ nơi ông – nhân vật vốn là một nhà văn -- nhân cơ hội này nhớ
lại những bước đường vẻ vang của một cuộc đời liên tục
phấn đấu và đã có nhiều thành đạt. Từ thuở còn trẻ, ông đã từng
lập bao kỳ tích trong nghề, và do đó được cả thiên hạ bái phục. Ngoài tài năng
bẩm sinh, ông còn có một cách sống khôn ngoan. Nói chung ông biết bỏ cái nhỏ lo
cái lớn. Ông không màng danh lợi. Giữa lúc mọi người đua chen, ông chỉ lo viết.
Tuy trong bụng thừa hiểu mình tài lớn thế nào, song luôn luôn ông tỏ
ra khiêm tốn bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng mình viết được là do
hoàn cảnh quá thuận lợi. Ông sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận sự phê phán, để
rồi tiếp tục viết như đã viết. Ông lại biết lấy lòng cả những người kém
tài hơn mình. Tóm lại có hàng trăm câu chuyện đủ sức chứng minh ông thường
xuyên đi guốc vào bụng thiên hạ và có cách sống hợp thời. Như thế mà sự rắc rối
lại đổ lên đầu ông là nghĩa thế nào, thật cuộc đời này phi lý quá, ông chỉ còn
có cách phì cười, bái phục đấng tạo hoá đa đoan đã chọn đúng ông để
hành hạ !
Những dấu ấn thời đại
Dù
được gọi là tiểu thuyết hay là gì gì nữa, thực chất của Thượng đế thì cười vẫn là cuốn
sách trong đó một con người mang quá khứ của mình ra để kể với bạn đọc. Câu
chuyện ở đây liên quan tới sự hình thành và bám trụ của một người cầm bút:
nguyên cớ đưa con người này đến nghề văn; những tín điều nghề nghiệp mà hắn --
đại từ mà Nguyễn Khải đã dùng – tuân theo; những mối quan hệ ( quan
hệ với cấp trên, với dư luận, với đồng nghiệp) hắn phải đối mặt. Và tất
cả hiện ra với cái vẻ riêng chỉ thời bây giờ mới có. Ngược với những
kẻ vừa làm vừa xấu hổ, nhân vật ở Thượng
đế thì cười công khai nói rằng sáng tác văn chương là một phần của
công tác tuyên huấn, đến với nghề văn là để phục vụ, người thành công là người
mang cả tâm huyết vào công việc. Theo tác giả, sự tự đồng nhất với những ý niệm
lớn lao là “khuynh hướng cách mạng bẩm sinh của các nghệ sĩ “. Bao
giờ họ cũng là những chiến binh tình nguyện của
cuộc đấu tranh cho quyền tự do dân chủ của con người. Ở chỗ này
phải nhận ngòi bút tác giả có một sự minh bạch, rành rẽ hiếm
thấy. Với Nguyễn Khải, chúng ta có một kiểu định nghĩa về người viết văn thời
nay, và đọc Thượng đế thì cười mới
hiểu làm nhà văn là khó đến mức nào, mỗi người tồn tại được đến ngày hôm nay
thật đã đáng để khâm phục.
Cần thiết cho ai ?
Khi
nhớ lại những cuốn tiểu thuyết viết về lớp người cầm bút trong văn
học Việt Nam trước 1945, người ta có thể kể ra mấy cuốn tiểu
thuyết như Trên đường sự nghiệp của Nguyễn Công
Hoan, Mực mài nước mắt của Lan Khai, Bốc đồng của
Đỗ Đức Thu … Từ sau 1945, tác phẩm viết về chính người viết
hơi hiếm, thay vào đó lại có những hồi ký: Bốn mươi năm nói láo (Vũ
Bằng ), Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan), Cát bụi
chân ai (Tô Hoài )… Trong hoàn cảnh ấy, Thượng
đế thì cười của Nguyễn Khải là một thể nghiệm mới, có liên
quan tới lớp nhà văn chỉ bắt đầu viết từ sau 1945. Như trên vừa nói, giá trị dễ
nhận ra nhất của cuốn sách là ở cái phần tài
liệu. Nó có khả năng giúp cho thày trò trong các nhà trường hiểu rõ
nhiều tác phẩm của Nguyễn Khải lâu nay vẫn được
mang ra giảng dạy. Có điều, văn đàn không phải là một thứ bục giảng ở trường
phổ thông, và so với một ít lời tâm sự thông thường thì những nhu cầu mà người
ta muốn biết về một nhà văn trong một tác phẩm gọi là tổng kết đời mình --
nếu trước mắt ta là một nhà văn thực thụ, nhà văn theo nghĩa cao đẹp nhất của
hai chữ này -- cao hơn, phức tạp hơn nhiều. Trong cái việc đưa bạn
đọc cùng suy nghĩ lại về những bước đi của quá khứ, mỗi người viết tự truyện có
dịp bộc lộ toàn bộ cái bản lĩnh trong suốt cuộc đời người ấy đã thu góp được.
Nếu không có được sự thăng hoa, thì ở đây họ cũng phải có những cố gắng vượt
bậc. Những tài liệu nghiên cứu về lịch sử thể loại cho chúng ta biết rằng thể
tài này đã có từ văn học cổ đại phương Tây, và ngay trong thời trung cổ nó vẫn
tiếp tục tồn tại, nhiều thày tu về cuối đời đã tìm ra cách để ghi chép bước
đường phấn đấu của cá nhân họ trên con đường đến với chúa. Bước sang
thời hiện đại, hồi ký tự truyện lại càng phát triển. Từ chỗ tìm
cách tự đồng nhất với các loại thần thánh và xem đó là con đường duy nhất khiến
mình trở thành chính mình, nhân vật của các hồi ký giờ đây phải đứng vững ở vị
trí của một con người, tức đối mặt với chính giá trị bản thân sẵn có. Nhu cầu
tự nhận thức được đưa lên hàng đầu, mà trong việc này, tư duy phê phán sẽ đóng
vai trò một công cụ hiệu nghiệm. Song cái sự tự phê phán cũng mang lại cho nhân
vật của các cuốn tự truyện thời nay nhiều sự phiền hà. Họ thường xuyên rơi vào
tình trạng bất hoà với mình. Họ biết rằng ở mình có cả những cái rất cao cả lẫn
những cái trần tục. Họ hoang mang, họ lúng túng. Thậm chí yêu cầu tưởng là tối
thiểu – sự tự nhận thức – không thực hiện được, chính mình là ai họ cũng không
biết. Câu hỏi nọ tiếp theo câu hỏi kia. Sự không thoả mãn là một nét đặc trưng làm
nên vẻ đẹp của những con người sáng suốt. Một người nổi tiếng là
khôn, là giỏi thích nghi, thậm chí là quay quắt như nhà văn Nga I. Ehrenburg,
nhiều lần trong tập hồi ký Con người năm tháng cuộc đời, bảo
rằng mình là một người bề ngoài u ám nhưng thực ra lại nông nổi nhẹ dạ. Và
trong khi kể lại nhiều sự kiện bản thân từng chứng kiến, ông nói thẳng rằng
chính ra ông cũng không biết thực chất con người ấy, sự việc ấy là như thế nào.
Một nhân vật lúc trẻ cũng đầy tự hào như L. Aragon về già cay đắng khái quát về
những bát lực của mình. Đại ý ông bảo cuộc đời tôi giống như một trò
chơi đáng sợ mà tôi hoàn toàn thua cuộc. Tôi đã bẻ gãy đã làm hỏng cuộc đời của
mình tới cái mức giờ đây hết bề cứu vãn. Bản thân Elsa Triolet vợ Aragon cũng
thú nhận theo hướng tương tự. Bà tự trách mình, tôi thích đeo đồ nữ trang,
chồng tôi cũng là một thứ đồ nữ trang, -- tôi là một con mẹ trần
tục, một madame tầm thường,vớ vẩn. Những lời thú nhận như thế
không hạ giá nhân vật mà chỉ làm cho người đọc thêm gần với họ và
tìm đọc họ. Khi người viết đặt ra mục đích viết tự truyện để khai phá lại, nhận
thức lại đường đời của mình thì cũng là lúc một cuộc phiêu lưu thực sự mở ra
với cả người đọc.
Đọc
Thượng đế thì cười mà đối chiếu với những yêu cầu này thì thấy
tác giả đi theo một hướng khác hẳn: Nhân vật chính thấy có nhu cầu tuyên bố về
mình, vĩnh viễn hoá mình, nhưng lại e làm thế sẽ mang tiếng là kiêu
căng, nên ngả sang vòng vo kể lể tâm sự. Chiếm vai trò trung tâm trong câu
chuyện là các ca, các trường hợp có liên quan đến sự kiên cường của
nhân vật và sự liên tục của hắn ( xin nhắc lại: chữ dùng
trong nguyên bản) trong việc theo đuổi niềm tin. Đằng sau những chiến công cụ
thể là ý thức rõ ràng của nhân vật về ưu thế của bản thân, cái ưu
thế khiến nhân vật không thấy có gì phải vươn lên mà chỉ cố cúi thấp
xuống cho vừa với hoàn cảnh. Câu chuyện không được tác giả bố
trí thành lớp lang rõ rệt theo một quá trình phát triển cụ thể, mà các chương
chỉ nối đuôi nhau để dần dà đi sâu vào những khía cạnh khác nhau trong quan
niệm sống và phép xử thế của nhân vật. Tức là về mặt bố cục, truyện có tính
chất trích mảng. Thời gian kéo dài theo một cái mạch đều đều, không có những
điểm dừng những bước ngoặt rõ rệt. Không rõ tác giả có cố ý nghĩ thế không,
song qua cách trình bày như hiện nay, cứ thấy toát ra một điều: ông
muốn nói cuộc đời mình không có chuyển biến đáng kể, không có cao
trào, lại càng không có những bước nhầm bước hụt nên không có gì phải hối tiếc.
Nhìn lại nó, trong lòng ông không thấy dội lên những câu hỏi và dù khách quan
đến đâu, ông cũng không thể tìm ra điều gì gọi là đáng trách. Sự ân hận không
có trong kho từ ngữ của nhà văn này. Công thành danh toại, ông thấy không cần
phải che giấu mà còn muốn nói to lên rằng bản thân rất hài lòng rất mãn nguyện
với quá khứ. Bề nào mà xét cũng thật khó lòng nói nhân vật tự truyện ở đây có
cách nghĩ hiện đại, và từ chỗ đứng của đời sống hiện đại mà tâm sự trò chuyện
với bạn đọc.
Đánh giá
chất lượng tác phẩm như một tiểu thuyết
Đến
đây xin tạm rẽ ngang, để đặt ra một câu hỏi: thế nếu
xét Thượng đế thì cười trên phương
diện tiểu thuyết thì tình hình sẽ ra sao ? Xung đột tập
I, lần in thứ nhất 1959, có một đoạn tự bạch, xin trích mấy ý : “Tôi về thôn
X. một thôn công giáo toàn tòng ở miền hạ huyện Nghĩa Hưng Nam Định vào
cuối năm 1956. (…) Lúc đầu tôi chỉ có ý định viết một tập ghi chép. Nhưng trong
khi ghi chép các nhân vật và thể hiện lên với nhiều vẻ phức
tạp của nó, thì tôi gặp một khó khăn lớn là bản thân tôi cũng không
lường được (V.T.N nhấn mạnh) rồi đây những vấn đề đó sẽ giải quyết như
thế nào, số phận các nhân vật đó sẽ giải quyết ra sao. Mà mọi
sự bịa đặt đều chỉ có thể dẫn đến sai lầm, tôi mới tiếp tục viết
thêm những tập sau nữa, hy vọng rằng trong quá trình nghiên cứu tôi
sẽ tìm hiểu được những vấn đề đã đặt ra một cách toàn diện hơn.
“ Theo tôi, đoạn văn này đã nói rất trúng cái tinh thần căn bản của tiểu thuyết
mà một số nhà lý luận như M. Bakhtin, hoặc nhà văn như M. Kundéra nhấn mạnh:
người viết tiểu thuyết không thể áp đặt cho nhân vật những sơ đồ có
sẵn. Mà phải tôn trọng nó, thấy nó là một cái gì nhởn nhơ trước mặt song không
dễ gì nắm bắt được, ngược lại phải lo đối thoại với nó, rổi tìm
hiểu khám phá nó. Cuối đoạn tự bạch nói trên, bằng cái giọng đầy e ngại, nhà
văn tiếp tục tâm sự :“Tuy vậy nay xem lại cả bốn tập viết rải rác
trong hơn một năm thì thấy có nhiều vấn đề còn lơ lửng, con đường đi
tới của một số nhân vật chính còn chưa rõ ràng …“. Theo tôi, cái chỗ mà tác
giả lo lắng đó lại chính là chỗ mạnh, là nhân tố làm nên
chất tiểu thuyết của Xung đột. Còn trong Thượng đế thì cười , suốt mấy trăm trang
sách, cái kẻ được gọi là hắn không hiện ra như một cái gì cần tìm hiểu. Tác giả
quá thuộc hắn, nói đến đâu ông làu làu đến đấy. Rồi sự thương yêu không hề giấu
giếm, sự kính phục dường như không tìm ra lời để diễn tả nổi, cả sự bênh vực đâu
vào đấy – một thứ bênh chằm chằm như lối các bà mẹ thời nay bênh
con, – bao nhiêu tình cảm người viết tiểu thuyết tự nhủ phải tránh cho xa
khi muốn khắc hoạ một nhân vật, trớ trêu thay, lại được Nguyễn Khải khai thác
một cách hồn nhiên, mà về hiệu quả nghệ thuật, hại nhiều hơn lợi. Và thế là cái
lý do khiến cho người ta khó gọi nhân vật chính của Thượng đế thì cười là một nhân vật hồi ký hiện đại như trên đã
trình bày đồng thời cũng là lý do chính khiến cho hắn không trở thành nhân vật
của tiểu thuyết theo những cách hiểu sâu sắc nhất về thể tài này.
Khi mình không phải là
người khác
Trở lại với Thượng đế thì cười như một cuốn hồi ký - tự truyện. Có một sự
việc thoạt nhìn tưởng nhỏ song lại không nên bỏ qua, là câu chuyện bà vợ.
Đây là cái cớ đóng vai trò khởi động cho cả cuốn sách và chừng nào đó ảnh hưởng
tới cả giọng điệu chính trong Thượng
đế thì cười . Thế nhưng thử nghĩ lại một chút: Cái việc người ta khi về
già, trở nên trái tính trái nết, bộc lộ ra lắm vụng về trong cách đối xử của
người thân, chẳng phải là chuyện hiếm hoi. May lắm, chỉ nên hiểu
nó như chút muối mặn làm tăng thêm ám ảnh về cái vô lý của đời thường mà những
ai còn cảm giác thực tế trước cuộc sống đều luôn luôn cảm
thấy và lĩnh đủ. Chắc chắn nó không ghê gớm đến mức khiến cho con
người ta phải “kêu thét lên vì vô lý “ như nhân vật trong
truyện đay đi đay lại. Thế thì tại sao nhà văn dùng đến bao nhiêu
câu chữ như vậy tô đậm cái bi kịch gia đình ? Hay là
ông vốn quen đặt ông quá cao, xem mình có quyền đứng ngoài mọi sự ràng buộc
thông thường mà mọi chúng sinh trong đời phải chịu, và điều này đã
ăn sâu vào tâm trí ông khiến ông không bao giờ nghĩ rằng làm thế lại
gây phản cảm? Từ đây nghĩ rộng ra, tôi có cảm tưởng mối quan hệ giữa
cá nhân và những người chung quanh --- một mối quan hệ mà mọi người
hàng ngày phải đối mặt, người viết hồi ký tự truyện càng phải
đối mặt --, mối quan hệ ấy ở Nguyễn Khải lâu nay chưa được giải quyết cho
ổn thoả và việc đó ảnh hưởng ngay tới sự nhất trí của tác phẩm ông
mới viết. Chúng ta biết rằng trong suốt cuộc đời của mình, nhà văn này vốn thành
thạo cả bút pháp sử thi, nhìn cái gì cũng thấy
thiêng liêng cao cả, và cả bút pháp tiểu thuyết, tiếp cận đời sống
ở cái vẻ suồng sã của nó, trong mỗi tác phẩm việc ông sử dụng cách nào là tuỳ
yêu cầu cụ thể và quả thật ông đã nhào lộn khéo léo đến
mức hai loại tác phẩm dùng hai bút pháp ngược nhau đến vậy cùng sống hoà bình
bên nhau để làm nên một sự nghiệp. Đến Thượng
đế thì cười , thì như trên đã nói, mặc dù cũng có một ít đùa bỡn vui
vẻ, song về căn bản bút pháp chủ yếu được sử dụng
là bút pháp sử thi, nó nhiều phần phù hợp với cảm hứng chung của
tác giả khi muốn nhìn lại đời mình theo cái
cách ở trên chúng tôi đã miêu tả. Thế nhưng có lẽ vì một sự méo mó nghề nghiệp
nào đó nên cây bút tiểu thuyết ở nhà văn vẫn ngọ
nguậy không yên, và điều đó khiến cho có lúc tác phẩm lạc
hẳn sang một cái giọng khác hẳn giọng điệu vốn có. Lại chết một nỗi, mặc dầu đã
tự kiềm chế, song nhà văn vẫn không giấu được một thói quen đã thành
cố tật: với những việc thiết thân của mình hoặc hợp với tạng
mình thì ông nhìn nhận một cách một cách nghiêm chỉnh, và dùng những lời khéo
léo nhất để tán dương; còn những gì không được việc cho mình, hoặc đơn giản là
việc của thiên hạ thì ông xem như trò đùa, thoáng nhìn đã thấy ngay bao điều
đáng mỉa mai giễu cợt. Thành thử người ta có trách rằng ở đây Nguyễn
Khải chưa đủ tỉnh táo và chưa đủ cả cái cận nhân
tình, tức cái bao dung cần thiết, kể cũng
không phải chuyện lạ !
Sự dừng lại nửa
chừng
Từ
nhiều năm nay Nguyễn Khải đã cho in một số tập sách trong đó ông thử trở lại
chuyện cũ để tìm cách chiêm nghiệm bản thân. Quan niệm tổng quát về
quá khứ đã có lần được ông trình bày trong cuốn Chuyện nghề (1999
) “Lắm ngày ngồi đọc lại hay nghĩ lại về những tác phẩm của mình
đã viết trong mấy chục năm qua, nhiều trang viết vẫn còn
làm tôi hãnh diện và có nhiều trang viết đã làm tôi xấu hổ và rất buồn. Những
trang viết chủ quan, kiêu ngạo chỉ khẳng định có một niềm tin, một lẽ sống, rồi
dạy dỗ, rồi lên án, rồi chế giễu tất cả những gì khác biệt với mình, đọc lại
thật đáng sợ. Thế giới như nhỏ lại, nhạt đi, căng thẳng ( …) Tôi rất muốn viết
lại một số trang vì tôi đã từng trải hơn, hiểu đời hiểu người hơn …”
Vừa
mới trả lời bạn đọc như vậy, đến Thượng
đế thì cười , nhà văn lại từ bỏ ngay cái điều định làm, hoặc nói cách khác,
là ông không có nhu cầu đó nữa. Trong mạch hồi ức bề bộn của nhân vật, rất
nhiều chi tiết đã được kể lại, nhằm gây hiệu quả có thực, song cái sự thực sâu
xa nhất về “đương sự“ thì bởi lẽ tác giả không muốn nói, nên với người đọc, vẫn
còn nguyên vẹn là một bí mật. Nhận xét về cách viết của Thượng đế thì cười , một nhà văn đàn anh
của tôi là Nguyễn Kiên vui miệng bảo : “Ban đầu ông Khải cũng muốn đùa bỡn với
mình, nhưng được một lúc thì quên hẳn, lại cứ lối viết xưa nay mà
kéo “. Và như thế, âm hưởng chính toát lên sau các trang sách vẫn là nhiệt
tình tự biểu dương tự khẳng định. Giải thích điều này không khó khăn gì,
nếu nhìn chung ra cả xã hội. Sau mấy chục năm sống mải miết, nay là lúc nhu
cầu trở lại chuyện xưa thức dậy ở nhiều người. Song cũng phải nhận đây là
việc khó, không phải người ta cứ có một quá khứ là đã hiểu được nó một cách
chính xác, dù đấy là quá khứ của chính mình. Vì cái công việc tưởng là dễ ợt
kia đòi hỏi một sự sáng suốt phi thường, làm việc với nó dễ căng dễ mệt, ai
người đã già, già không phải về mặt thể chất mà cái chính là về mặt
tinh thần, chắc chắn không thể chịu nổi. Con người hiện đại để đạt tới sự tự
nhận thức thực sự, phải tự lột trần, tự bỏ phục trang xã hội của mình -- nhiều
người ngại ngần. Con người hiện đại không chỉ nhấn mạnh chỗ
khác so với chung quanh, mà còn tìm kiếm và thử tìm
cách xác định hồn cốt bên trong của mình – nhiều
người dừng lại. Đọc sách,trước mắt người đọc chỉ có hình ảnh của
những tác giả hồi ký - tự truyện như họ muốn, chứ không phải như họ có thật
trong đời. Nguyễn Khải cũng không ra khỏi cái sự thường tình đó. Quá
trình trở lại cái thời lãng mạn ở ông bắt đầu từ vài năm nay,
tới Thượng đế thì cười thì được
hoàn chỉnh.Và cách giải thích tốt nhất ở đây có lẽ là mượn lại câu nói
của nhà văn đồng thời là nhà đạo đức học người Pháp F. La
Rochfoucauld (1613-1680) : Chúng ta quá quen trá hình trước mắt
kẻ khác nên rốt cuộc trá hình ngay với chính mình.
Lời kêu gọi Hãy
đi xa hơn nữa
Sống
ở đời, Đời khổ, Chuyện tình của mỗi người, Một thời gió bụi, Anh hùng bĩ
vận …, tên gọi của một số tác phẩm Nguyễn Khải viết
hơn một thập kỷ nay đã làm chứng cho một ao ước chính đáng nơi ông là muốn đi
tới những khái quát nhân sinh, nó là điểm tới xa hơn sâu hơn so với
các tác phẩm cũ của ông. Trong những tác phẩm thuộc loại viết về sau này (đây
chỉ kể những truyện khá nhất), cuộc đời hiện ra không phải như cái gì tác giả
đã thuộc như lòng bàn tay, mà còn bao điều chính ông chưa biết và không rõ nên
cắt nghĩa ra sao. Ông không ngại đi vào những nghịch cảnh, trớ trêu. Ông biết
thông cảm với nỗi sợ, niềm đau. Ông sẵn sàng dùng lại những chữ như số kiếp,
thân phận … Những nỗ lực này của nhà văn có để lại dấu vết trong Thượng đế thì cười . Thử nhớ lại hình
ảnh bà cụ già ngồi ăn bún với muối hoặc người đàn ông đánh một chiếc xe trâu
chở cái tiểu sành có bộ xương vợ với đứa con nhỏ đi suốt từ Điện Biên về vùng
xuôi. Hôm qua, Nguyễn Khải đã biết những con người ấy, những tình tiết ấy,
nhưng không bao giờ nghĩ tới việc mang chúng vào trang sách. Về già, ông
nhắc tới chúng với niềm hãnh diện: đó là một phần cuộc đời của ông và chính
nhờ thế ông tìm ra cách sống rồi nương theo đó là cách viết.
Không
phải ngẫu nhiên một bài phỏng vấn Nguyễn Khải đầu 2004 có cái tên
gọi khái quát: Cười cho một kiếp nhân sinh. Theo tôi hiểu, chính
nhà văn cũng có lúc muốn xuất hiện trước bạn đọc trong một tư thế như vậy,với
bộ y phục như vậy. Thế nhưng nhìn chung Thượng đế thì cười (mà hẳn tác giả rất lấy làm đắc ý
) vẫn thành công chính ở việc biểu dương một sự nghiệp hơn là chạm vào một vấn
đề bao quát của cuộc đời. Nó mang lại cho tác giả một chút an tâm
cần thiết, chứ không chắc đã giúp cho các tầng lớp bạn đọc lẫn các đồng
nghiệp soi vào đó để hiểu thêm những ngày đang sống, với đủ ngọt bùi chua chát
chúng ta vẫn cảm nhận. nói với người ta về một ít con người trong một thời cụ
thể, chứ chưa đủ sức vươn tới những khái quát về kiếp nhân sinh nói
chung, do đó chưa thuộc vào loại tác phẩm tự nó sẽ còn được đọc lại, như hôm
nay chúng ta đọc lại Số đỏ, Chí Phèo, hoặc gần đây Cát bụi
chân ai. Đáng lẽ có thể đạt tới khả năng lôi cuốn của những
cuốn sách mang tính cách tôi thú nhận là tôi đã sống ( chữ
của P. Neruda), hoặc tôi lật con bài của tôi (chữ của
L.Aragon), song Thượng đế thì cười đã dừng
lại trên cái mạch cũ của một đời văn sớm định hình ở tác giả.
Có những
giới hạn mà cả những đầu óc thông minh nhất trong thời của mình vẫn không thể
vượt qua – cuối cùng chỉ còn có cách nghĩ vậy. Nhưng đặt vào hoàn
cảnh hôm nay, Thượng đế thì cười của Nguyễn
Khải lại có cơ trở thành một lời kêu gọi: cách tốt nhất
để các đồng nghiệp, nhất là các bạn trẻ, thể hiện lòng yêu mến kính
trọng đối với nhà văn hàng đầu này là đi tiếp trên con đường ông đã thấy là
phải, nhưng không đủ sức dấn tới./.
2005