- Lanh, khôn, nhưng thiếu chắc chắn
- Có nhiều ý kiến khác nhau về lớp trẻ bây giờ: cả lạc quan lẫn
bi quan. Còn ông, ấn tượng chung về họ ở ông ra sao?
- Ở
bạn trẻ bây giờ, cảm giác tự do rất mạnh. Hơn hẳn cái đó ở bọn
tôi. Thời trước, chúng tôi rón rén, khép nép, cái gì cũng sợ. Có những điều rất giản dị rất tự nhiên chúng tôi cũng phải chờ đợi cho phép mới được làm... mà chờ đợi mấy cũng vui vẻ cam chịu.
Các
bạn giờ sống với cả thế giới rộng lớn, nhiều bạn có cảm giác mình là
công dân thế giới.
Chúng tôi xưa quanh quẩn trên mảnh đất quen
thuộc. Nhớ lần đầu đi qua biên giới thì tim đập thình thịch.
Song
đằng sau vẻ rất lanh, rất khôn, tiếp cận và hiểu biết nhiều, lớp trẻ bây giờ
lại gợi trong tôi một cảm giác thiếu chắc chắn, mới trông thì lắm hình lắm vẻ song nhìn kỹ lại lờ mờ, nhợt nhạt thiếu
ước mơ lớn.
Hình như đằng sau những lời huyênh hoang, trong thâm tâm họ quá hiểu mình, nên có cảm giác bi quan, cho rằng mình không bao giờ đạt được cái mức lý tưởng như các thế hệ trước.
Họ
có thể phóng đi rất nhanh để rồi chả biết làm gì ở cái nơi vừa đến. Đằng sau
cái vẻ vội vã của họ hình như ẩn giấu một nỗi thèm thuồng, chỉ sợ
không được hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Trong sự vội vã ấy, họ lại không có
khả năng dò vào chiều sâu của cuộc sống.
Tôi hay nghĩ người Việt mình là một khối tự phát còn lớp trẻ thì chính là lớp người
nhạy cảm nhất, dễ gây bất ngờ nhất , nhưng cũng dễ nản lòng đầu hàng nhất. Lớp trẻ hiện nay mang trong nó
cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả mọi dạng tai hoạ bất ngờ. Họ không đủ khả năng theo đuổi những định hướng lớn. Có lúc tôi thấy với họ thật khó đoán không biết điều gì sẽ xảy ra. Có lúc tôi lại buồn rầu mà nghĩ rằng họ cứ quanh quẩn thế thôi, chả đi tới đâu hết
- Ông có thể cắt nghĩa hiện tượng này?
-
Tuổi trẻ bao giờ cũng bị ảnh hưởng theo chiều ngang, ảnh hưởng bởi tinh thần thời đại nhiều hơn là
ảnh hưởng dọc, ảnh hưởng từ thế hệ cha ông. Mà thời đại ta nói chung là thời đại của cái
gì đó vỡ ra dang dở và chưa được sắp xếp lại.
Nước
ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là
trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi
khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự
ti quá. Cái này thấy rõ ở giới trẻ.
Tôi nhớ một nhân viên tuyển dụng nước
ngoài thường tiếp xúc với SV mới ra trường, có nhận xét, SV ta nhiều khi
nói nhiều điều mà mình không biết, đến lúc hỏi kỹ thì lại trở nên lúng túng.
So
với lớp trước, lớp trẻ hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc
điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất phương hướng, không xác định được
mình.
Trong
nhiều trường hợp, họ hiểu rất sai về tự do. Tự do không phải là bột phát,
muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về hoàn cảnh
và tìm ra cách thích ứng với hoàn cảnh, đồng thời vẫn khẳng định con đường riêng của bản thân mình.
Tự
do cao nhất là tự do về mặt tinh thần, liên quan đến nội lực con người, sự
phong phú trong tinh thần của họ, chứ tự do không phải là lăn ra đường để
khẳng định cái tôi. Đa số giới trẻ hiện nay, tự do bề ngoài thì có nhưng tự do sâu
sắc bên trong thì không. Điều này dẫn đến việc họ không tìm được cách bình tĩnh sống và học tập, mà trút cả cái gọi là khao khát tự do vốn có vào những hành động ngông cuồng bề ngoài.
- Nói một chút về sự mất phương hướng của lớp trẻ. Ở Mỹ
từng có một "thế hệ vứt đi" sau Thế chiến I, và một thế hệ
hippy trong chiến tranh Việt Nam,
mất niềm tin vào cuộc sống. Ở Nhật cũng có một thế hệ khủng hoảng niềm
tin... VN trải qua một cuộc chiến lâu dài, đang trên đường phát triển và
sẽ phải đối mặt với cả những hiện tượng xã hội đi kèm. Ông có nghĩ một điều
tương tự ở đây?
-
Bất cứ một xã hội nào, sau thời gian chiến tranh, con người
cũng đều cảm thấy đời là trống rỗng... Đây là bệnh chung của xã hội thời
hậu chiến.
Còn phát triển quá của xã hội hiện đại khiến giới trẻ ở một nước vốn khép kín như thanh niên ta chịu không nổi , kết quả là xuất hiện những những hiệu ứng tâm lý khá kỳ quặc.
Ngay cái ham hưởng thụ, sống gấp...một cách bệnh hoạn cũng là một biểu hiện khó tránh.
So
với các nước cũng trải qua chiến tranh, tôi cho là ở VN, các bệnh trạng hậu chiến còn trầm trọng hơn nhiều. Thiếu một sự quan tâm thường xuyên,
thiếu một cái nhìn thấu đáo, thiếu một sự nhận chân, như thế này sẽ
luôn luôn có scandal chờ sẵn.
Tuy
nhiên, ở VN, lối phản ứng của con người không bao giờ quyết liệt cả, mà
thường loanh quanh tản mát, mỗi người tự bó hẹp, tự làm nghèo mình đi, do đó những chuyển đổi cơ bản rất khó xảy tới. Chúng ta sẽ cứ nhùng nhằng như thế này mãi.
Giã từ ảo tưởng
- Nếu làm phép so sánh tương quan với các thế hệ trước, ông đánh
giá lớp trẻ bây giờ nằm ở vị trí nào?
-
So với lớp cha anh thì họ đã có nhiều cái mới.
Nhưng, so với yêu cầu thời đại
thì còn đòi hỏi một sự phấn đấu cao hơn hẳn.
Đầu
thế kỷ XX, nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với thế
giới, với văn minh phương Tây.
Cả một
lứa như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan
Anh, Tạ Quang Bửu , Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiền, Hoàng Xuân Hãn ... thực sự tạo dựng được một nền tảng học thuật vượt
xa các bậc tiền bối.
Trong
văn học nghệ thuật, một thế hệ các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà
văn... để lại dấu ấn mạnh mẽ.
Lấy
đơn cử, các tác giả thời ấy như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam... có số lượng người đọc đông đảo, trước họ chưa từng
có. Tức là sức ảnh hưởng vào thời đại của họ cũng rất lớn.
Thời
Pháp thuộc, 15-16 tuổi người ta đã đi làm công chức và đã có sự trưởng thành
về mặt xã hội. Không ai có thể nghĩ là Vũ Trọng Phụng chết non được, vì
tuy mới 27 tuổi ông đã có một sự nghiệp hoàn chỉnh.
Sau
đó, thế hệ thanh niên sinh khoảng trước sau 1930 và bắt đầu
lập nghiệp từ sau giai đoạn Cách mạng tháng 8 1945 cũng để lại
trong tôi một ấn tượng rõ rệt. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, các
nhạc sĩ như Nguyễn Đức Toàn, Huy Du… làm nên một bước chuyển mới trong sinh
hoạt văn nghệ. Các tác phẩm để đời của họ thường được viết ngay khi
họ mới 20-25, thậm chí còn trẻ hơn nữa.
- Thế còn thế hệ các ông, thế hệ thanh niên trong chiến tranh
chống Mỹ, cũng là một thế hệ ưu tú mà nhiều người thường nhắc đến
với một sự hoài niệm tự hào?
- Các bạn cứ khen quá vậy. Hay là vẫn bị các ông bạn tôi úm? Đừng có tin họ.
Đặt trong toàn cảnh lịch sử các thế hệ tiếp nối nhau trong thế kỷ qua , thì thế hệ tôi là một thế hệ chỉ đóng vai trò thực hiện lời chỉ bảo các bậc đàn anh, chứ chẳng nghĩ được sáng tạo được gì mới so với lớp người đi trước.
Nhìn vào văn học nghệ thuật là khu vực tôi sống và làm nghề mấy chục năm nay, điều ấy càng thấy rất rõ.
Trong chiến tranh các đồng nghiệp của tôi có làm được một ít việc đáp ứng nhu cầu chiến tranh, nhưng sang thời hậu chiến chẳng ai làm được gì thêm đáng kể. Mà cái họ đã làm được trong chiến tranh cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Họ đã già đi quá sớm.
Cái đó một phần cũng do hoàn cảnh chiến tranh. Cần lưu ý là chiến tranh ở VN nó ghê gớm lắm, nó hủy diệt con người khủng khiếp lắm, nhất là với lớp người lúc ấy chỉ là anh lính.
Một mặt phải nói trong khi tạo động lực để thế hệ trẻ phát huy được tốt nhất tinh hoa của mình thì chiến tranh cũng vắt kiệt sức của họ .
Mặt khác phải thấy cách khơi dậy nội lực lúc ấy giống như khai hoang, chỉ được một lần.
Vấn đề là chúng ta phải thâm canh phải đào tạo ra những người luôn
có thể tiếp tục trưởng thành khi đã bốn mươi năm mươi. Ở ta làm gì có chuyện đó?
- Vậy, theo ông, làm sao để "thâm canh" trên thế hệ
trẻ hiện tại một cách tốt nhất?
- Đã qua rồi cái thời xây dựng thông điệp qua những thi đua với lại điển hình.
Qua rồi lối kích động những lửa rơm mà không lo đào tạo lâu dài.
Qua rồi cả cách tư duy cổ lỗ của thời chiến.
Trước
đây, chúng ta cứ hay dạy trẻ "ở hiền gặp lành"... bây giờ phải có
những câu khác, ở hiền đôi khi vẫn gặp ác như thường.
Không nên nhồi nhét cho lớp
trẻ hình ảnh về một xã hội ảo tưởng, mà nên giúp họ hiểu đúng thực tế .
Không chỉ lo tìm cách sử dụng họ mà phải giúp họ làm chủ bản thân.
Cần nhớ giới trẻ luôn tích tụ khối năng lượng lớn, làm sao để hướng cho họ sử
dụng tốt nguồn năng lượng ấy mới khó.
Ngay đằng sau những cuộc đập phá mà nhiều
người lên án, phải thấy là một cảm giác muốn tự khẳng định. Mà xã hội chúng ta chưa chỉ
cho họ con đường chân chính để làm việc này.
Điều kiện để họ phát triển -
trước tiên là một nền giáo dục hiện đại mang tinh thần nhân bản - thì
lại càng chưa có.
Sau khi có phương hướng đúng, điều
quan trọng nhất là cho họ thấy mọi nỗ lực chính đáng của họ sẽ được đền đáp.
Nếu chỗ nào họ cũng cảm thấy bí, bị chặn lại... bởi những điều tiêu cực
giới hạn như trong chuyện học hành, công việc... thì họ sẽ dễ nản. Hiện trong xã
hội, vẫn đầy rẫy nạn tham nhũng, vẫn đánh giá nhau chỉ bằng tuổi tác kinh nghiệm, sống lâu
lên lão làng... Điều này không những làm sự vận động xã hội nói chung chậm lại mà với lớp trẻ càng khiến họ hoang mang mất hết tin tưởng.
- Có phải ý ông muốn nói những quy tắc
xã hội chưa chạy theo kịp sự vận động của thời đại?
- Vâng, ta chưa theo kịp ở cái cơ bản nhất , là nhận thức tổng quát về thời đại.
Lev Landau là nhà vật lý xô viết có nhiều đóng góp cho vật lý lý thuyết, nhất là khu vực vật lý lượng tử. Ông Landau này từng nói: "Thời đại của chúng ta là thời
đại của những nghịch lý".
Trong xã hội hiện đại mọi sự đều thay đổi như
vậy, không thể giữ mãi một kiểu nghĩ cũ.
Theo
tôi, thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết. Nay
là lúc mọi chuyện tốt xấu nên công khai ra, công nhận nó, chứ đừng đẩy nó vào
bóng tối, lại làm phát triển ngầm hơn.
Tôi
ví dụ, ở một số nước, người ta cho phép hoạt động mại dâm công khai
miễn là có quản lý chặt chẽ. Còn ở ta, cho rằng mại dâm là trái với thuần
phong mỹ tục, với quan niệm truyền thống phương Đông nên ta chỉ có cấm. Nhưng
ai cũng thấy chỉ cấm được trên danh nghĩa, còn trong thực tế lại để lan tràn.
Hiện
tại chúng ta vẫn duy trì nhiều sự quá khắt khe, mà tiếc thay, cái khắt khe ấy
chỉ ở trên bề nổi, trong thực tế của chúng ta vẫn đầy rẫy những chuyện ta cấm ấy.
Đấy là một biểu hiện của sự giả dối.
Trong
mắt tôi, vụ NSƯT Lê Vân thẳng thắn nhìn nói lên những gì chưa được trong gia
đình là một tín hiệu tốt. Tất nhiên, chẳng có gì là trọn vẹn cả, được cái này
hỏng cái khác. Người Việt hay thích tròn trịa, mà chính vì sự tròn trịa này
nó làm ta bớt sắc đi.
- Sự phát triển kinh tế, xã hội luôn phải đối mặt với sự thay
đổi các giá trị văn hoá. Theo ông thì làm gì để điều tiết cân bằng hiện tượng
này, để giới trẻ dễ đi giữa hai làn đường này?
-
Trong văn hóa học, giá trị có hai dạng. Các giá trị nhân bản thì thời nào cũng
có, như sự tôn trọng xã hội, sống lương thiện, tự do... Lại có những giá trị
chỉ thích hợp với từng thời đại Một số bài học truyền thống ta đang
giáo dục cho lớp trẻ như phải biết vâng lời hoặc “tốt đẹp phô ra xấu xa
đậy lại”... giờ không thích hợp nữa.
Sự cần thiết phải hình thành cho mình một hệ thống giá trị mới
- Ông đánh giá cao điều gì nhất ở lớp người trẻ?
-
Thứ nhất là khả năng dám nghĩ khác và thứ hai là sự thẳng thắn.
Tôi
nhớ mãi câu nói của một thanh niên. Ta hay khuyên họ “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây". Nhưng cậu bạn trẻ này "lý luận", quan hệ mua bán là quan hệ bình đẳng chứ
không phải mang ơn, hệ luỵ: "nhờ tôi mua quả bà trồng bà mới sống
được".
Cảm giác biết ơn là một giá trị truyền thống.
Tôn trọng lao
động của nhau, mỗi người có một giá trị đóng góp là một giá trị
hiện đại, hợp thời.
Trong
cách nghĩ ấy, rõ ràng là đã thấy một lớp người khác.
Trong số các phẩm chất cần thiết cho các bạn trẻ, tôi thấy cũng cần đề cao khả năng có những khoảng thời gian đơn độc
với chính mình. Người Việt Nam
thường rất sợ sống một mình. Việc ít đọc sách, ít nghiên cứu cũng là một
biểu hiện. Điều này thể hiện tính bầy đàn cao. Muốn có trí tuệ thì phải dám
đơn độc.
- Hiện tại, xã hội Việt Nam đã phát triển nhiều so với trước,
nhưng một cách thẳng thắn, chúng ta vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, bị thế
giới bỏ xa khá lớn. Theo ông thì có hướng nào để nhanh thu hẹp khoảng cách
này không?
-
Có những người chủ trương như đi tắt, đón đầu. Tôi không ủng hộ. Vì tôi không tin. Chúng ta
cũng phải xác định thẳng với người dân là hò hét mấy cũng không bao giờ đón
đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả
giá.
Chúng
ta đang phát triển nóng quá. Nếu cả xã hội sống tỉnh táo, bình tĩnh, tự
nhận thức chính xác về mình, làm gì đó theo đúng chuẩn mực, thì bằng những
bước đi chắc chắn , chúng ta sẽ giúp cho lớp trẻ một cơ hội thuận lợi.
- Gác qua những điều kiện hỗ trợ của xã hội, vậy thì bản
thân giới trẻ phải đáp ứng những yêu cầu gì để có thể thực hiện nhiệm vụ thời
đại của mình?
-
Thời đại đòi hỏi ở lớp trẻ một trí tuệ cao lắm. Lớp trẻ hiện tại cũng đang
thiếu một khát vọng lớn lao, thiếu sự nghĩ rằng, mình phải ngang hàng
với các dân tộc trên thế giới.
Tôi
nghe kể một câu chuyện đàm đạo về giấc mơ. Người Việt bảo, mơ
có một cái honda, ô tô. Người Nhật bảo: Tôi có ước mơ là thực hiện được
ước mơ của bạn. Chuyện phiếm thôi, nhưng nó phản ánh tâm lý của người mình hôm nay là không lo làm chỉ lo hưởng.
Chúng
ta phải có một cuộc tự vấn rộng lớn, xã hội đặt câu hỏi với chính mình, mà từng cá nhân cũng đặt yêu cầu cao với mình. Luôn phải nghĩ
rằng, mọi vấn đề đều có thể có cách làm khác.
- Sự tự vấn ấy được thực hiện dưới hình thức nào?
-
Chúng ta nên có nhiều những cuộc đối thoại với lớp trẻ. Từ chuyện của Lê Vân,
tôi thấy cần có sự đối thoại thường xuyên trẻ - già trong từng gia đình và cả trên phạm vi xã hội. Đặt mình vào
địa vị của nhau, lớp già thì nên biết điều hơn, đừng dạy dỗ nhiều, lớp trẻ
nên thông cảm hơn, hiểu những khó khăn ngày hôm qua...
- Dẫu sao, ông vẫn đặt niềm tin vào giới trẻ chứ?
-
Hồi ở Văn nghệ quân đội, ông Nguyễn Khải hay bảo tôi, nói chuyện
với lớp trẻ là khó nhất, nhưng chinh phục được "hội nó" lại là thú
vị nhất.
Khi trưởng thành lên, tôi cũng thấy thế.
Trong những cuộc đối thoại,
được giới trẻ khen tôi cảm thấy yên tâm, không chừng mình còn sống được với
tương lai.
Tôi
đang viết đều chuyên mục "Thói hư tật xấu người Việt" trên báo Thể
thao - Văn hoá. Tòa soạn bảo chính độc giả trẻ lại quan tâm hơn, điều
đó động viên tôi rất nhiều.
Lúc tôi mới vào nghề, người phụ trách trực tiếp tôi là nhà văn Nhị
Ca từng bảo một câu mà tôi nhớ như chôn vào ruột: "Nhất định các cậu phải làm được hơn chúng mình".
Câu
ấy không làm cho tôi kiêu căng, mà giúp tôi phải phấn đâu hết mình để đạt được kỳ
vọng. Kỳ vọng của tôi mà cũng của Nhị Ca.
Ngày nay tôi cũng thường nói thầm như thế với các bạn trẻ xa gần.
Tôi
muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Khi những nỗ lực đã đưa ta đạt tới chuẩn mực thế giới thì sẽ chẳng ai gạt bỏ nổi.
Lấy một ví dụ thô thiển tôi hay nói với các cháu trong gia đình. Ngành nào cũng vậy mà nhất là ở những ngành thơm tho như ngân hàng tài chính,hoặc ngoại giao "ngoại thớt" " người ta hay xí riêng làm của riêng của ngành mình, tức là đặc biệt ưu tiên cho con cháu các cụ.
Thế nhưng trong sự phát triển và hội nhập hiện nay, các cơ quan đó làm sao chỉ vận động bằng đám trẻ quý tộc chỉ biết ăn hại? Họ cũng rất cần những người thật giỏi.
Bên văn học của chúng tôi thì có hai trường hợp là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Người ta đã tìm đủ mọi cách để gạt bỏ họ.
Người ta chưa bao giờ cho họ một giải thưởng nào cả, hoặc có lần đã cho rồi lại đòi lại.
Người ta nhất định không đưa họ vào giảng dạy ở nhà trường.
Người ta không muốn cho bạn đọc nước ngoài tiếp xúc với họ dịch họ.
Thế nhưng tới nay bất chấp mọi nỗ lực từ phía chính thống, cả trong nước và quốc tế đều công nhận họ xem họ thuộc về những hiện tượng quan trọng nhất của văn học VN sau chiến tranh. Các nhà xuất bản vẫn luôn phải in lại tác phẩm của họ. Các bạn đọc trẻ thì đọc lần đầu. Lớp già như bọn tôi thì đọc đi đọc lại.
Một xã hội nếu như chưa muốn tự tử thì phải luôn đón chờ những tài năng trẻ.
Tuy
nhiên, hiện giờ vẫn chưa hình thành được hệ thống giá trị mới. Lớp trẻ cần tự
hình thành cho mình. Phấn đấu trong sự đơn độc, cũng như khi bơi ngược dòng, thật ra lại có niềm vui riêng của nó.
- Cảm ơn ông.
|