NGUYÊN ĐÂY LÀ MỘT CÂU THƠ TRONG BÀI PHỐ HÀNG SONG
Ở PHỐ HÀNG SONG THẬT LẮM QUAN,
THÀNH THÌ ĐEN KỊT, ĐỐC THÌ LANG
CHỒNG CHUNG VỢ CHẠ, KÌA CÔ BỐ ĐẬU LẠY QUAN XIN, NỌ CHÚ HÀN
Thành là tên gọi viên phòng thành, chức quan chỉ huy quân sự một tỉnh, cũng như đốc học là người phụ trách giáo dục cuả tỉnh. Cả hai nằm trong hàng loạt gương mặt những con người đương thời mà Tú Xương từng phác họa.
Ở PHỐ HÀNG SONG THẬT LẮM QUAN,
THÀNH THÌ ĐEN KỊT, ĐỐC THÌ LANG
CHỒNG CHUNG VỢ CHẠ, KÌA CÔ BỐ ĐẬU LẠY QUAN XIN, NỌ CHÚ HÀN
Thành là tên gọi viên phòng thành, chức quan chỉ huy quân sự một tỉnh, cũng như đốc học là người phụ trách giáo dục cuả tỉnh. Cả hai nằm trong hàng loạt gương mặt những con người đương thời mà Tú Xương từng phác họa.
Là một ngòi bút trào phúng thực thụ và có bản lĩnh, Tú Xương thường không ngại mang chính mình ra mà chế giễu. Loạt thơ tự trào, cộng với những bài trữ tình thuần túy (loại như Sông kia rày đã nên đồng...) gộp cả lại làm nên một mảng thơ riêng, khá đặc sắc.
Có điều, dẫu sao, trong số hơn trăm bài thơ hiện đang lưu truyền và được xác định là của tác giả, các bài thơ “hướng nội” nói trên chỉ chiếm một phần nhỏ. Ngược lại, nói tới Tú Xương, nhiều khi người ta nhớ ngay tới loại thơ khắc họa chân dung những người đương thời. Những bài “hướng ngoại” này thường nói tới một đối tượng cụ thể: một ông phủ, ông đốc học nào đó trong vùng hoặc một người bạn nào đó của tác giả. Và chúng thường có nhan đề ngắn gọn (do người sau đặt): Mừng ông lang, Chế ông huyện, Đùa ông hàn, Bỡn ông Điềm v.v…
Một phòng triển lãm
Nhận xét thứ nhất nảy sinh khi người ta đọc loại thơ này: Tú Xương có một phạm vi quan sát khá rộng. Sống trong một đô thị nhỏ nơi thoát thai từ làng xóm, ông vẫn giữ được thói quen thường thấy trong sinh hoạt tinh thần nơi thôn xã là để mắt đến mọi việc xảy ra chung quanh, và sẵn sàng lên tiếng về những chuyện ấy. Lọt vào kính ngắm thường xuyên của ông là đủ loại nhân vật, từ quan chức đến sư sãi, từ ông tú ông cử, cho đến đám học trò đang mài đũng quần trong các lớp bình văn, rồi cô ký, me tây, rồi thầy thông, thầy phán… sơ sơ có thể ước tính tổng cộng số người được Tú Xương nhắc tới trong các bài thơ đã viết lên tới vài chục. Tất cả hiện ra như các hình nhân trong một chiếc đèn kéo quân khổng lồ mà tác giả đã kỳ công vẽ mặt tô mày để kiếm chút niềm vui giữa cuộc đời tẻ nhạt.
Những nét kỳ dị
Theo sự ghi nhận của nhà văn Nguyễn Công Hoan – một người nổi tiếng có trí nhớ tốt và đã một thời gian dạy học ở Nam Định – thì hầu hết các nhân vật được nói tới trong thơ Tú Xương có địa chỉ thật ở ngoài đời. Các bài thơ đã hình thành như một cách để tác giả đánh dấu những gương mặt mà mình từng biết và phải chung sống.
Tuy nhiên, điều đó không làm hại đến ý nghĩa khái quát mà các chân dung có thể có.
Một nhận xét nữa nẩy sinh khi đọc loại thơ nhân vật của Tú Xương: trước sau bút pháp của ông là khá nhất quán. Sự hài hước được nhà thơ sử dụng như một loại “chiếu yêu kính” tức một công cụ để nhận thức bản chất con người và sự việc.
Vấn đề không phải chỉ ở chỗ tác giả thường xuyên miêu tả những thói xấu của các nhân vật, tức vạch ra sự không bình thường của nó về mặt xã hội (quan lại tham nhũng, đốc học rong chơi, cờ bạc; sư ở tù; con cái khinh bỉ bố mẹ…).
Mà điều quan trọng hơn, là ông biết nhìn ra cả trong mặt mày hình dáng con người cũng có sự biến dạng.
Vấn đề không phải chỉ ở chỗ tác giả thường xuyên miêu tả những thói xấu của các nhân vật, tức vạch ra sự không bình thường của nó về mặt xã hội (quan lại tham nhũng, đốc học rong chơi, cờ bạc; sư ở tù; con cái khinh bỉ bố mẹ…).
Mà điều quan trọng hơn, là ông biết nhìn ra cả trong mặt mày hình dáng con người cũng có sự biến dạng.
Nếu ông chỉ nói ở cái phố hàng Song lắm quan kia, cô Bố “chồng chung vợ chạ”, ông Hàn “đậu lạy quan xin”, ta thấy đã tài, đã sắc sảo.
Song con mắt thi sĩ nơi ông còn nhìn thấy cái nét đặc sắc mà cái nhìn xã hội học dễ bỏ qua: “Thành thì đen kịt, đốc thì lang”.
Trong một dịp khác, ông tả người bán sắt “Mũi nó gồ gồ, trán nó giô”, cũng như ông không tha cả chính mình “Mắt thì lao láo, mặt thì xanh”.
Những câu thơ hơi khang khác này xui người ta nghĩ rằng hình như trong tiềm thức, tác giả bắt đầu cảm thấy rằng sự méo mó lệch lạc là nằm tận trong bản chất con người đương thời. Đây nữa, những câu thơ tả sự dở dang, bất cập, một thứ nửa dơi nửa chuột tiên thiên bất túc không sao sửa chữa nổi trong con người đương thời, đại loại:
Song con mắt thi sĩ nơi ông còn nhìn thấy cái nét đặc sắc mà cái nhìn xã hội học dễ bỏ qua: “Thành thì đen kịt, đốc thì lang”.
Trong một dịp khác, ông tả người bán sắt “Mũi nó gồ gồ, trán nó giô”, cũng như ông không tha cả chính mình “Mắt thì lao láo, mặt thì xanh”.
Những câu thơ hơi khang khác này xui người ta nghĩ rằng hình như trong tiềm thức, tác giả bắt đầu cảm thấy rằng sự méo mó lệch lạc là nằm tận trong bản chất con người đương thời. Đây nữa, những câu thơ tả sự dở dang, bất cập, một thứ nửa dơi nửa chuột tiên thiên bất túc không sao sửa chữa nổi trong con người đương thời, đại loại:
- Hán tự không biết Hán
Tây tự chẳng biết Tây
- Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta
- Chẳng phải quan mà chẳng phải dân
- Ấm không ra ấm, ấm ra nồi.
Như các nhà nghiên cứu nghệ thuật đã lưu ý, nét đặc biệt của nghệ thuật hiện đại (rõ nhất là trong hội họa) ấy là thiên về miêu tả con người với những nét kỳ dị, hình ảnh méo mó, không những không ăn khớp với những khuôn mẫu sẵn có, mà còn thường xuyên có hiện tượng phân thân, và không tạo ra một sự ổn định, không có những đường viền rõ rệt. Do những hạn chế của thời đại và của bản thân, đương nhiên Tú Xương chưa thể có được một tư duy nghệ thuật mới lạ như vậy.
Những câu thơ trên chỉ được viết ra một cách tự phát.
Song đọc Tú Xương, người ta vẫn không khỏi liên tưởng tới một quan niệm về con người mới mẻ -- chưa xuất hiện ở thời của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du -- những quan niệm về con người chỉ xã hội hiện đại mới có. Đây chỉ nói về quan niệm; còn như mỗi tác giả đạt tới mức sâu sắc và độc đáo như thế nào trong quan niệm của mình, thì đấy lại là chuyện khác.
Những câu thơ trên chỉ được viết ra một cách tự phát.
Song đọc Tú Xương, người ta vẫn không khỏi liên tưởng tới một quan niệm về con người mới mẻ -- chưa xuất hiện ở thời của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du -- những quan niệm về con người chỉ xã hội hiện đại mới có. Đây chỉ nói về quan niệm; còn như mỗi tác giả đạt tới mức sâu sắc và độc đáo như thế nào trong quan niệm của mình, thì đấy lại là chuyện khác.
Sự phá cách
Mặc dù chỉ sống được hơn 7 năm trong thế kỷ XX, Tú Xương vẫn đáng được xem như một nhà thơ có cốt cách hiện đại. Cảm giác hiện đại chủ yếu hình thành qua ấn tượng về con người tác giả, một người làm thơ không phải để nói chí hoặc giáo hóa ai mà chỉ cốt phơi bày cho hết những bức xúc chộn rộn trong lòng mình; con người ấy gần như đánh mất sự quân bình vốn có, ngược lại lúc nào ông cũng sống trong trạng thái “ngồi không yên ổn đứng không vững vàng” luôn luôn bị ám ảnh bởi những ham hố trần tục.
Có điều “mình với ta tuy hai mà một” (thơ Tản Đà), con người tác giả trong thơ Tú Xương thế nào thì các nhân vật được ông phác họa cũng vậy.
Xưa nay đã nhiều người tả cô đầu, song chỉ đến Tú Xương, loại người tưởng là dưới đáy xã hội này mới dám lớn tiếng tuyên bố “Cũng liều bán váy chơi xuân”.
Nghe thật trâng tráo nhưng bên trong có gì đó chua chát, bi phẫn, nó là cái tâm trạng đến với người ta khi cuộc sống chung quanh đã trở nên bẩn thỉu quá mà bản thân không biết làm gì để thay đổi nó.
Nghe thật trâng tráo nhưng bên trong có gì đó chua chát, bi phẫn, nó là cái tâm trạng đến với người ta khi cuộc sống chung quanh đã trở nên bẩn thỉu quá mà bản thân không biết làm gì để thay đổi nó.
Cái tâm thế của người cô đầu Tú Xương diễn tả ở đây sẽ là tâm thế mà càng về sau càng phổ biến, và con người thời sau, dù làm bất cứ việc gì, trước những bất lực phải chịu, cũng muốn văng ra những câu tương tự.
Chẳng những quyết liệt trong thái độ sống, Tú Xương còn quyết liệt trong các ứng xử nghệ thuật.
Thời ông sống là thời trong văn chương Việt Nam còn đang ngự trị các quy phạm cổ điển. Thơ ca Việt Nam phải gần ba chục năm sau mới biết đến phong trào Thơ mới, nên gì thì gì, Tú Xương cũng chỉ có cách trổ tài qua thơ Đường luật. Song bản lĩnh và ý chí tự do của nhà thơ non Côi sông Vị là ở chỗ, trong khi bị gò bó bởi thi luật cổ điển, Tú Xương vẫn tìm đủ cách để công phá nó. Một ví dụ: bài thơ mang tên Bỡn ông Điềm.
Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà
Trước nhà có miếu có cây đa
Cửa hè sân ngõ chừng ba thước
Nứa lá tre pheo đủ một tòa
Mới sáu bận sinh đà sáu cậu
Trong hai dinh ở có hai bà
Trông ông mốc thếch như trăn gió
Ông tốt duyên vì có nước da
Cũng giống như nhiều bài thất ngôn bát cú của Xuân Hương, bài thơ này, tuy bề ngoài vẫn giữ được sự đăng đối (câu ba đối câu bốn, câu năm đối câu sáu) song đó là một sự đăng đối trời cho, người ta cảm thấy tác giả không cần một chút cố gắng. Trong khi ấy mạch đi của cả bài thơ quá tự nhiên, hầu như gặp đâu nói đấy, những ràng buộc thừa-phá-đề-luận-kết… bị để sang một bên, hai câu cuối giống như một miếng bỏ nhỏ khá gây ấn tượng.
Nhất là về mặt mỹ cảm thì sự phá cách càng rõ rệt, cái chi tiết mốc thếch như trăn gió quá đậm chất văn xuôi, cũng như giọng thơ nửa thân tình nửa giễu cợt, tất cả làm cho sự vật con người mất hẳn cái vẻ cao thượng, thuần khiết, vốn được coi là nét tiêu biểu của thơ ca cổ điển.
Đã in Cánh bướm và đóa hướng dương, 1999
Viết thêm 22-7-2014
Thỉnh thoảng tôi hay trở lại với những bức ảnh chụp chân dung con người hoặc những đám đông trong thời gian năm bảy chục năm trước. Tự nhiên cứ cảm thấy sao mặt người xưa thường hiền lành phúc hậu, chứ không đằng đằng sát khí và đầy ham muốn tà tâm muốn tự bộc lộ như con người thời nay.
Và tôi nghĩ đến tình trạng lay lắt của các nhà văn.
Khi đối diện với xã hội đương đại, các đồng nghiệp của tôi phân hóa làm hai dạng.
Một số thường chỉ lo nịnh bợ con người.
Một số khác – đây tôi muốn nói những cây bút còn có lương tâm nghề nghiệp -- tính chuyện phân tích phê phán sự suy đồi xuống cấp mà con người hiện đại đang trải qua. Họ sẵn sàng lớn tiếng. Họ nghĩ, bằng cách đó tác động vào xã hội, dọn đường cho con người hiện nay vượt lên mình, tự từ bỏ cái ác trong mình.
Một số thường chỉ lo nịnh bợ con người.
Một số khác – đây tôi muốn nói những cây bút còn có lương tâm nghề nghiệp -- tính chuyện phân tích phê phán sự suy đồi xuống cấp mà con người hiện đại đang trải qua. Họ sẵn sàng lớn tiếng. Họ nghĩ, bằng cách đó tác động vào xã hội, dọn đường cho con người hiện nay vượt lên mình, tự từ bỏ cái ác trong mình.
Nhưng những tác động đó xem ra chưa hiệu quả bao nhiêu, con người đương đại từ các quan chức nhà nước đến người dân thường hôm nay xem ra đã quá lỳ lợm, đối tượng của văn học hiện nay chừng như đã nhờn thuốc, nghe rồi để đấy.
Chân dung con người hiện đại cần được biểu hiện bằng những bảng mầu mới. Khái quát hơn, chúng ta phải có những nguyên tắc miêu tả mới dựa trên những nguyên tắc mỹ học hiện đại.
Chân dung con người hiện đại cần được biểu hiện bằng những bảng mầu mới. Khái quát hơn, chúng ta phải có những nguyên tắc miêu tả mới dựa trên những nguyên tắc mỹ học hiện đại.
Một chút khác đi trong phương thức tự sự sử dụng trong thơ Tú Xương ở đây là câu trả lời mà các thế hệ người viết văn trước đã tự phát đi tới.
Đến lượt mình, nhà văn ngày nay phải đi tới nó một cách tự giác. Tức là trải qua bài bản nghiên cứu một cách khoa học và có sự tham khảo hướng phát triển của văn học thế giới.
Có một nhà văn hiện đại cũng đã dùng những phương tiện biếm họa kiểu grotesque để miêu tả đời sống đương thời. Chúng tôi đã nói tới điều này trong bài Sự biến hóa của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao trước 1945 -- cũng tức là bài Nam Cao và chủ đề sự bất lực trước kiếp sống mòn, in trên blog này 6-1-2011.
So với Nam Cao thì việc xử lý phương thức ở Tú Xương đơn sơ mộc mạc hơn.
Nhưng ta nhớ, Tú Xương sống trước Nam Cao gần nửa thế kỷ, khi mà xã hội và văn học còn đang ngổn ngang trong một thời kỳ chuyển đổi còn Nam Cao thì sống ở một thời đại đã chín, thậm chí chín quá hóa thành nẫu nà hư hỏng.
Bài học của cả hai người là những gợi ý tốt cho những người viết văn hôm nay. Hoặc là phải nâng mình lên, phải tự khác đi. Hoặc là cứ sống ngắc ngoải như ta đang sống rồi ôm nhau nỉ non than thở trách móc. Rằng không ai đọc mình. Rằng nhà nước đã nhận nuôi như một lũ báo cô, nuôi để làm cảnh, mà vẫn để mình rạc dài đói khát.