Quyển sách phải có
Với khối lượng chữ nghĩa đã viết, trong văn
học VN hiện đại, tác giả Bước đường
cùng phải được xem như một trong số
những người viết hoạt động có hiệu quả bậc nhất.
Trong khi không sống hẳn giữa giới cầm bút mà lấy dạy học làm nghề chính, Nguyễn Công Hoan vẫn biết giữ cho mình một nếp làm việc đều đặn. Giữa dự định và công việc, thường khi có sự ăn khớp. Đã viết là in được.
Ông lại luôn biết chăm lo tới tay nghề. Dễ không ai say sưa nói về kỹ thuật viết truyện như ông, nào là dàn quân nào là bài binh bố trận, và cuối cùng còn là bẫy độc giả là đưa suy nghĩ của họ vào đúng cái luồng lạch mình đã bố trí sẵn khiến họ như cá vào lờ không sao thoát ra nổi....
Từng cách thức được ông kể lại tỉ mỉ với niềm tin không thể lay chuyển: viết văn phải có mẹo có mực chứ không lơ mơ tùy tiện được.
Trong khi không sống hẳn giữa giới cầm bút mà lấy dạy học làm nghề chính, Nguyễn Công Hoan vẫn biết giữ cho mình một nếp làm việc đều đặn. Giữa dự định và công việc, thường khi có sự ăn khớp. Đã viết là in được.
Ông lại luôn biết chăm lo tới tay nghề. Dễ không ai say sưa nói về kỹ thuật viết truyện như ông, nào là dàn quân nào là bài binh bố trận, và cuối cùng còn là bẫy độc giả là đưa suy nghĩ của họ vào đúng cái luồng lạch mình đã bố trí sẵn khiến họ như cá vào lờ không sao thoát ra nổi....
Từng cách thức được ông kể lại tỉ mỉ với niềm tin không thể lay chuyển: viết văn phải có mẹo có mực chứ không lơ mơ tùy tiện được.
Sự xuất hiện của một cuốn sách hồi ký như Đời
viết văn của tôi (1971) nằm trong cái mạch liên tục ấy. Nó là một bằng chứng nữa
đánh dấu tính cách chuyên nghiệp của ngòi bút tác giả.
Một cách tự nhiên, đúng hơn một cách bản năng không cần tính toán gì nhiều, thật ra ông đã tiếp nhận quan niệm về một nhà văn chuyên nghiệp thường thấy ở phương Tây: sau những năm tháng cặm cụi làm việc một người làm nghề thực thụ thể nào cũng phải để ra một ít thời gian tính đếm lại đời mình. Hồi ký nên được coi là cái dấu chấm hết đẹp đẽ nhất cho một đời viết sung mãn.
Một cách tự nhiên, đúng hơn một cách bản năng không cần tính toán gì nhiều, thật ra ông đã tiếp nhận quan niệm về một nhà văn chuyên nghiệp thường thấy ở phương Tây: sau những năm tháng cặm cụi làm việc một người làm nghề thực thụ thể nào cũng phải để ra một ít thời gian tính đếm lại đời mình. Hồi ký nên được coi là cái dấu chấm hết đẹp đẽ nhất cho một đời viết sung mãn.
Hoàn cảnh ra đời
Cuộc hành nghề của Nguyễn Công Hoan trước 1945 có thể
gọi là khá thành đạt. Thế nhưng từ sau 1945, quá trình sáng tác của ông so với các đồng nghiệp trẻ
hơn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng... có nhiều chỗ khác, nếu không muốn nói là xỉn hơn, kém hơn rõ rệt.
Tám năm kháng chiến, trong khi nhiều nhà
văn đấu đầu lo liệu cho Hội văn nghệ
thì ông làm việc ở một trường bổ túc văn
hoá của quân đội, và chỉ sau hoà bình lập lại 1954 mới trở về nhận biên chế ở Hội nhà văn.
Sự nhập cuộc trở lại này không mấy hiệu
quả.
Trong khi những Sông Đà, Truyện Tây Bắc hoặc Riêng chung, Anh sáng và phù sa...viết
thẳng về cuộc sống mới và được dư luận đón đợi, được đủ các loại giải
thưởng to nhỏ thì Nguyễn Công Hoan chủ
yếu viết lại cuộc sống trước 1945 như Tranh
tối tranh sáng(1956), Hỗn canh hỗn cư
(1961), Đống rác cũ (1963), và mặc dù các sáng tác ấy đã được tác giả đặt
nhiều công sức, song có vẻ như chúng không tương xứng với tầm vóc và tiếng tăm của ông.
Khi ra đời chúng chỉ được chào đón một cách dè dặt.
Có cuốn chỉ in được tập một rồi dừng lại hơn hai chục năm sau mới ra nốt được tập hai (Đống rác cũ).
Khi ra đời chúng chỉ được chào đón một cách dè dặt.
Có cuốn chỉ in được tập một rồi dừng lại hơn hai chục năm sau mới ra nốt được tập hai (Đống rác cũ).
Có cuốn viết xong đành xếp tạm đấy mãi khi
nhà văn qua đời mới được in ( Anh con trai người bạn đọc ấy).
Một
người ưa hoạt động coi việc viết ngang
với cơm ăn nước uống hàng ngày như
Nguyễn Công Hoan trước cảnh bí bách không chịu bó tay. Ông xoay ra làm
một số việc khác như đi phỏng vấn các đồng nghiệp (Hỏi chuyện các nhà văn)
hoặc đính chính thơ văn của Nguyễn Khuyến,Tú Xương...
Dẫu sao có thể dự đoán, càng ngày ông càng
cảm thấy vốn liếng mình là ở như những hiểu biết về xã hội cũ và chỉ trong khi viết về xã hội cũ mình mới trở nên có ích hơn cho con người đương thời.
Cái định hướng này có thể ngẫu nhiên song đúng là đã trở thành nhất quán ở
Nguyễn Công Hoan.
Ông sớm tính chuyện viết hồi ký.
Qua bảng niên biểu của một nhà nghiên cứu làm về Nguyễn Công Hoan, tôi được biết ngay từ cuối năm 1957, Đời viết văn của tôi đã có bản sơ thảo.
Tới năm 1969 thì hoàn thành, và hai năm sau thì được in ra ở nhà xuất bản chuyên về văn chương duy nhất bấy giờ là nhà Văn học.
Tới năm 1969 thì hoàn thành, và hai năm sau thì được in ra ở nhà xuất bản chuyên về văn chương duy nhất bấy giờ là nhà Văn học.
Tô
Hoài, trong một bài viết về Nguyễn Công Hoan, từng ghi lại đoạn đối thoại sau:
(... ) Lại đến năm trước anh kể :
--Tôi mới nghĩ ra cái truyện dài,cái truyện
dài này thì dài vô tận.
--Truyện
gì ạ ?
--Truyện
nhớ gì ghi nấy.
Tôi vẫn chưa hiểu. Anh cắt nghĩa: ở tuổi anh bây giờ, những từng trải những mắt thấy
tai nghe, từ lúc mất nước đến khi độc lập,biết bao phong phú, phải ghi lại cho
lớp người sau biết. Thế là anh đóng từng tập giấy hàng trăm trang, mỗi khi nhớ
việc gì,suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Ghi hết giấy anh đóng tập khác.
Những ý tưởng này chủ yếu liên quan đến tập
Nhớ gì ghi nấy, song cũng đã hé ra cho thấy một phần cái tâm sự của nhà văn
khi đến với Đời viết văn của tôi. Đặt vào thời điểm mà cuốn sách được
viết, phải nói sự xuất hiện của nó là táo bạo bởi lẽ khoảng những năm năm mươi
sáu mươi thế kỷ XX, số nhà văn ở ta tính chuyện nhìn lại đời mình một cách rành
mạch, số đó còn rất ít.
Một kiểu viết hồi ký, một kiểu tự phân tích
Thể hồi ký vốn mang trong nó một sự đa dạng
nhất định. Ở đây có những nguyên tắc chung, nhưng lại có chỗ rộng rãi cho sự sáng tạo. Lấy ngay thí dụ
trong văn học VN hiện đại. Có hồi ký gần
với tự truyện, tức là một thứ tiểu thuyết, như Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng. Có hồi ký có tính cách một sự suy nghĩ lại về đời mình và do đó
giàu chất chính luận như Tự phán của Phan Bội Châu.
Về
mặt nhân vật mà xét, có khi tác giả bám
sát quá trình cầm bút của bản thân như Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê, lại có khi người
viết như tránh sang một bên, để nói về
một ai đó hoặc nói chung về những người tác giả đã gặp và có vẻ chỉ nhân
tiện mà nói thêm về mình như Cát bụi chân ai của Tô Hoài.
Còn Đời viết văn của tôi thì sao ?
Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, cuốn
sách nhằm tới cái đích chung là phác hoạ
sự hình thành tính cách của tác giả và con đường tác giả đến với văn học. Ông
không chủ ý kể về đời mình một cách chi tiết, theo kiểu bám sát từng năm hoặc
từng thời kỳ một. Mà ông khái quát lại thành các phần Ảnh hưởng …Hoạt động…
Sáng tác...
Trong khi hàng ngày, nhà văn thường vẫn tuyên bố là mình viết
một cách hồn nhiên không đắn đo cân nhắc gì nhiều thì lúc bắt tay vào viết hồi ký, trên đại thể ông lại sử dụng một bút pháp
mang ý nghĩa tổng kết, tức là đi từ xa tới gần, từ tổng thể đến trường hợp
riêng, từ nguyên nhân tới kết quả lớp
lang đâu vào đấy.
Cái việc mang mình ra phân tích được làm một cách khá bài bản. Ông hiểu ông là sản phẩm của một hoàn cảnh,
cũng giống như tờ giấy thấm, con người ông đã thấm đẫm những ảnh hưởng của môi
trường xã hội chung quanh.
Khi bàn về thể tài của Bước đường cùng,
nhiều người thích xác định đấy là tiểu
thuyết xã hội, tiểu thuyết tố cáo. Song Nguyễn Công Hoan nói đơn giản hơn đấy
là tiểu thuyết phong tục, chẳng qua thạo nhiều chuỵện sinh hoạt ở nông thôn từ
chuyện đẻ đái cãi nhau vì mất gà tới cảnh vay nợ, cảnh ăn khao rồi bỏ ruợu lậu
vào ruộng của nhau… nên ông đưa cả vào trong sách.
Cách hiểu về chi tiết phong tục như thế này
cũng chi phối tác giả khi viết hồi ký Đời viết văn của tôi.
Sinh năm 1903, Nguyễn Công Hoan có thể tự nhận là
người cùng tuổi với thế kỷ XX. Trong lịch sử dân tộc, thế kỷ này là một bước rẽ ngoặt. Từ đây
xã hội rời bỏ mẫu hình phát triển trung đại của phương Đông để sải bước trên con đường Âu hoá.
Bởi
vậy những kỷ niệm của tác giả trong tuổi niên thiếu có thể coi như những chứng
tích về sự xâm nhập của văn hoá phương Tây thông qua mọi yếu tố của môi trường xã hội cũng như con đường các gia
đình nền nếp giáo dục các thành viên của mình để đứng vững trước mọi ảnh hưởng
mạnh mẽ đó.
Những trang kể lại thời đi học ở trường
Bưởi không hề mang tính cách thơ mộng như thường thấy ở hồi ký các nhà văn khác. Mà cũng vẫn là những
trang tự bộc lộ chân thành đến mức như là thách thức sự đời, lại còn
pha chút trắng trợn bất cần.
Nào
là việc làm giấy khai sinh với ít nhiều man trá.
Nào là học trò chia phe phái trọc ghẹo nhau và đánh nhau với bọn trẻ con Tây.
Nào là vào hùa chạy theo phong trào “đế
chế bắc hoá “, tức tẩy chay hàng Tàu....
Còn có hàng loạt những chi tiết có liên
quan đến mọi mặt đời sống được Nguyễn Công Hoan nhân tiện ghi lại làm nên da thịt của cuốn hồi ký văn học.
Tiếng nói của người trong cuộc
Nguyễn Công Hoan đã liên tục có mặt trong
những giai đoạn nối tiếp nhau của lịch sử văn học: ông vừa là người của thời kỳ
dò dẫm tìm đường (những năm hai mươi ), vừa là nhà văn hàng đầu khi đời sống
sáng tác đạt tới một sự chín đẹp (từ sau
1932 tới khoảng 44-45).
Mấy
chục năm đầu thế kỷ XX là thời đặt nền móng của nền quốc văn mới mà cũng là thời của
báo chí văn học. Đây cũng là môi trường tốt để ngòi bút Nguyễn Công Hoan tập
dượt.
Với tờ báo này, ông là bạn của người sáng
lập, nhân nể bạn thì viết giúp.
Với tờ tạp chí kia, ông là một trong
những cây bút chủ trò,người ta bàn với ông cả từ thể tài đến cách bán hàng.
Những năm hai mươi khi mở mục Việt
Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký trên An Nam tạp chí, Tản Đà chỉ viết
những bài đầu còn thực chất về sau là do Nguyễn Công Hoan gánh vác. Những quyển sách đầu tiên của ông
được in ra khi các nhà xuất bản còn chưa thành hình và chỉ có các nhà in hoặc
các hiệu sách đứng tên sau các xuất bản phẩm.
Đến
khi Tiểu thuyết thứ bảy và Phổ thông bán nguyệt san của Vũ Đình
Long ra đời, ông lại trở thành một trong những tác giả góp truyện đều đặn.
Dường như có thể soi vào đời viết của ông
để thấy bước đi của một mùa màng văn học từ lúc thịnh trị tới lúc lụi dần để chuyển giai đoạn.
Nếu như Vũ Trọng Phụng trẻ hơn ông viết sau ông nhưng lại qua đời trước ông ( họ Vũ mất 1939 ) thì Nguyễn Công Hoan còn lải rải viết thêm mãi về sau, cả khi những ngày đẹp nhất của văn học đã qua.
Nếu như Vũ Trọng Phụng trẻ hơn ông viết sau ông nhưng lại qua đời trước ông ( họ Vũ mất 1939 ) thì Nguyễn Công Hoan còn lải rải viết thêm mãi về sau, cả khi những ngày đẹp nhất của văn học đã qua.
Có
thể xem đây là một trong những yếu tố chủ đạo
tạo nên giá trị của cuốn hồi ký. Qua
Nguyễn Công Hoan chúng ta được biết nhiều chi tiết có liên quan đến những sự kiện văn hoá mà không sách vở nào ghi lại.
Chẳng hạn chung quanh Đông dương tạp chí và Nam phong,
tác giả Đời viết văn của tôi không chỉ nói rõ mục tiêu khuynh hướng mỗi tờ báo đó, mà còn biết họ được nhà nước bảo
hộ trợ cấp bao nhiêu tiền hàng năm.
Hoặc chẳng hạn chung quanh tờ Hữu thanh
của Bắc kỳ công thương đồng nghiệp ái hữu
hội. Lâu nay giới nghiên cứu chỉ nghe nói Tản Đà làm với báo này vài tháng rồi thôi. Giờ đây
cũng qua Nguyễn Công Hoan, chúng ta được
biết thực chất cái hội đó ra sao và ông chủ báo có cái thói kỳ cục thế
nào ( Nguyễn Công Hoan, kể Nguyễn Huy Hợi, chủ báo Hữu Thanh là một kẻ rất hiếu danh. Bài
viết ra để đăng báo, toà soạn họp để bàn thì bao giờ Nguyễn Huy Hợi cũng có mặt. Có
mặt không để góp ý kiến mà để thấy bài nào hay cũng thò vào một câu “Hay là ký
tên tôi “).
Có những chi
tiết thoạt nhìn có vẻ bâng quơ không đâu vào đâu nhưng nghĩ kỹ thấy có ý nghĩa,
giá Nguyễn Công Hoan không kể thì ít người biết.
Ở phần Hoạt động Nguyễn Công Hoan bảo rằng
một điều khiến ông tự hào là cuốn sách
đầu tay của ông mang tên Kiếp hồng nhan chỉ toàn sáng tác.
Mới nghe
người đọc thời nay hẳn lấy làm lạ. Tập truyện ngắn nào mà chẳng toàn sáng tác? Nhưng đọc thêm đoạn dưới của cuốn hồi ký mới biết hồi ấy, khoảng trước 1930, sách in thường tạp pí lù
mỗi thứ một tí, truyện lẫn với
thơ, truyện mới sáng tác chen lẫn truyện dịch.
Và như vậy
tình trạng ấu trĩ của văn học lúc ấy còn len vào cả trong quan niệm về sách, còn
Nguyễn Công Hoan thì có quyền tự hào là mình thuộc loại đi đầu trên con đường
thay đổi để đi tới một sự thuần chủng.
Một vài cải chính có ý nghĩa"sòng phẳng với lịch sử"
Chẳng
những biết sách vở khi nó đã được in ra, ông còn biết nhiều cuốn sách ngay từ
khi nó được thai nghén.
Đây là ví dụ :
Khi thuật lại nguyên cớ thúc đẩy Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công
Hoan nói rõ hồi ấy Ngô Tất Tố cũng chưa hề có ý thức tố cáo, chẳng qua thấy Vũ Trọng Phụng viết truyện Vỡ
đê thì ông nói ”Vũ Trọng Phụng viết thế nào được truyện nhà quê. Để tôi
viết cho“.
Ý Nguyễn Công Hoan muốn nhấn mạnh điểm
xuất phát ban đầu tiểu thuyết của Ngô
Tất Tố khá giản dị, tính chất tố cáo của sáng tác chỉ đến về sau (đây là điều không chỉ đúng với Ngô Tất Tố mà
còn đúng với nhiều nhà văn cùng thời ).
Cũng nên biết thêm là trong một bài viết mang tên Mấy ý kiến về
cuốn Văn học Việt Nam 1930 --1945 in trên Tạp chí Văn học 1962 (sau
đổi là Cần hiểu đúng Ngô Tất Tố in
vào tập sách Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội nhà văn 1993), Nguyễn Công Hoan từng đả động tới một
sự việc mà nhiều nhà văn học sử thích
nhắc lại coi như một niềm tự hào của ngòi bút nhà nho Ngô Tất Tố, ấy là việc quyển Tắt
đèn bị cấm.
Sau khi hạ một câu chắc chắn như đinh đóng
cột “Sự thực, thì tôi không nghe ai nói điều này“, Nguyễn Công Hoan để công
giảng giải khá kỹ về cách cấm sách thời trước, để khẳng định thêm chuyện này
không xảy ra với đồng nghiệp của mình.
Tinh thần này được Nguyễn Công Hoan tiếp tục
trong hồi ký Đời viết văn của tôi.
Không phải ngẫu nhiên mà khi trích đoạn
Nguyễn Công Hoan viết về Vũ Trọng Phụng ở đây vào sách Nhà văn Vũ Trọng
Phụng với chúng ta, một giáo sư đặt cho đoạn trích cái tên Chiêu
tuyết cho người đã khuất.
Để hiểu điều này cần biết là trước 1975 ở Hà Nội Vũ Trọng Phụng được liệt vào loại nhà văn "có vấn đề" và nói như ở đây là một cách nói ngược, nếu không phải ở miệng Nguyễn Công Hoan chắc là không được in.
Để hiểu điều này cần biết là trước 1975 ở Hà Nội Vũ Trọng Phụng được liệt vào loại nhà văn "có vấn đề" và nói như ở đây là một cách nói ngược, nếu không phải ở miệng Nguyễn Công Hoan chắc là không được in.
Còn một nhân vật nữa lâu nay ít được nói cho
minh bạch, ấy là Phạm Quỳnh.
Ngay từ đầu Nguyễn Công Hoan đã nói rõ ai đã đứng tên trong việc tổ chức ra báo Nam Phong. Song sau 1934, Phạm Quỳnh không làm báo nữa mà đi nhận chân thượng thư -- một việc thường được người đương thời và hậu thế giải thích một cách như ta hay gọi là tiêu cực. Nguyễn Công Hoan không cần rào đón nhiều. Ông đưa ra cách hiểu riêng.
Ngay từ đầu Nguyễn Công Hoan đã nói rõ ai đã đứng tên trong việc tổ chức ra báo Nam Phong. Song sau 1934, Phạm Quỳnh không làm báo nữa mà đi nhận chân thượng thư -- một việc thường được người đương thời và hậu thế giải thích một cách như ta hay gọi là tiêu cực. Nguyễn Công Hoan không cần rào đón nhiều. Ông đưa ra cách hiểu riêng.
Theo ông, Phạm Quỳnh là người yêu nước, cùng
với những người lương thiện khác chịu chung cảnh ngộ người dân mất nước “ai không
đau đớn ai không khóc thầm“, và việc người chủ bút Nam Phong bỏ báo để đi làm quan chẳng phải do hám lợi như người
ta vẫn nói, mà chỉ muốn có một dịp thuận lợi nói rõ ý mình, thế thôi.
Giá kể vào tay người khác thì khi viết
những chuyện này hẳn là phải ra cái điều quan trọng lắm coi như mình dám đi ngược
lại ý kiến của giới quyền uy và nhờ thế khôi
phục lai bộ mặt của lich sử. Và trước khi
nói ra tiếng nói cuối cùng, hẳn tác giả hồi ký phải rào trước đón sau đủ chuyện. Nguyễn Công Hoan
thì khác. Cách viết của ông ở chỗ này tự nhiên rành rẽ, dường như ông muốn nói
sự thực rất đơn giản chẳng qua những người đa sự
chỉ nói tầm phơ mà chẳng có ích cho ai !
Sự suồng sã cần thiết
Cái chết của nhiều nhà viết hồi ký là hay
quan trọng hoá những hoàn cảnh những sự kiện mình đã từng sống. Nguyễn Công
Hoan thì khác. Ông thích làm giảm tầm quan trọng của sự kiện đã nêu.
Trong nhiều
trường hợp, ông lưu ý một việc người đời sau coi là tày đình xảy ra chẳng qua
chỉ có lý do rất ngẫu nhiên.
Đây cũng là một cách để phản ứng lại lối vào hùa hoặc thói cơ hội mà ông khinh bỉ.
Đây cũng là một cách để phản ứng lại lối vào hùa hoặc thói cơ hội mà ông khinh bỉ.
Như trên đã nói, mặc dù viết đều viết khỏe bậc nhất trong giới, song suốt trong thời tiền chiến, Nguyễn Công Hoan vẫn không bỏ nghề dạy học. Không bao giờ người ta thấy ông kêu than là phải làm gấp bản thảo để mang bán trong khi vợ đau con yếu kiểu như Vũ Trọng Phụng Nam Cao. Mà ông cũng không ham chơi đến mức luôn luôn cần tiền như Nguyễn Tuân hoặc Lưu Trọng Lư.
Như vậy là đối với nghề văn, ông không bị ràng buộc đến bị động. Luôn luôn
ông đứng cách nó một khoảng cách. Điều này chẳng những mang lại cho nhà
văn một cuộc sống độc lập mà còn giúp
ông thế đứng bên ngoài vốn rất cần thiết cho việc đưa ra một cái nhìn
bao quát về nghề nghiệp.
Chúng ta biết rằng suốt thời trung đại, văn
học VN không có hồi ký. Mà ngay trong thế kỷ XX, cả các nhà chính trị nhà
hoạt động xã hội lẫn các nhà văn các hoạ sĩ nhạc sĩ và nói chung là những người lẽ ra nên
viết hồi ký cũng không mấy ai tính chuyện động bút trong thể tài
này. Tại sao như vậy ?
Hình như ở đây có vấn đề của tư duy: người
Việt tuy luôn luôn lưu luyến quá khứ
song lại không thích chuyện tính sổ
quá khứ một cách rành mạch.
Xu thế tâm lý nói chung là tốt đẹp phô
ra xấu xa đậy lại.
Lại có tình trạng nhiều người trong thâm tâm thừa biết rằng mình sống dở, sống chẳng ra
sao, song khi kể chuyện cũ lại
tìm cách tô điểm cho cái quá khứ
ấy một vẻ dễ coi. Với những bộ sử những
tài liệu nghiên cứu có liên quan đến
mình, họ thường săn đón và tìm mọi cách
chăm sóc sao cho khuôn mặt mình được tô vẽ cho dễ coi một chút. Còn hồi ký ghi đích danh tên mình ấy ư
-- họ ngại!
Thế Nguyễn Công Hoan thì sao?
Những người thích đọc ông đều biết nhà văn
này có một cách nghĩ riêng về đời và đã phát biểu cách hiểu đời này ngay trong một số truyện ngắn viết trước 1945.
Đoạn văn sau đây là một tuyên ngôn :
Đoạn văn sau đây là một tuyên ngôn :
Điều tôi lấy làm bực mình nhất là thế nào chẳng có một độc giả đa nghi,xem
xong câu chuyện này bảo một bạn rằng
--Hắn bịa.
Tôi hãy cãi trước rằng :
--Thưa
không bịa tí nào.
Rồi không để ông độc giả ấy nói thêm, tôi phải
tiếp luôn :
--Ngài
cho là vô lý ? Ngài nên hiểu nghe chuyện gì mà ngài cứ lấy cái óc cổ điển ra
mà xét thì cũng cho là vô lý cả. Vì thế
sự đã xoay thành ngược mà đời ngày nay
chẳng phải là một bà hiền mẫu thưởng phạt công minh. Đời đã hoá ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy sinh non ra toàn những hạng hoặc mất
dạy hoặc đói cơm.
Không. Ngài cho phép tôi nói nốt đã. Hạng
đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp mọi nơi. Thường họ gõ cửa nhà ngài xưng
là thất nghiệp. Họ bị ngài đuổi đi sau khi đã bố thí cho một bài học về siêng năng không hợp thời.
Còn hạng mất dạy cũng chẳng ít. Họ rất no đủ sang trọng,song,chuyên môn đeo mặt
nạ để lừa dối bóc lột lẫn nhau.
Được cái, trong khi giữ một cách nhìn bi
quan về xã hội, đồng thời ông không biệt
đãi bản thân, tính chuyện tô vẽ bản thân. Trong hồi ký ông tự trình bày bản thân với đủ thứ thói tật.
Nhìn quá rõ những mặt xấu trong con người, hoài nghi đối với nhân tâm thế đạo,
rồi khinh thế ngạo vật rồi lười biếng ẩu không coi việc gì là quan
trọng... xưa nay thật khó có ai tự nói
về mình như vậy.
Và cũng vì thế nên trong Đời viết văn
của tôi có những nhận xét về nghề cầm bút rất khắc nghiệt đại loại :
- Làng văn từ xưa đến giờ, quả là cái chợ
- Một dạo người ta sợ những người cầm bút như …sợ hủi
- Rất nhiều người viết chỉ láng tráng đến với nghề một
chốc rồi chuồn thẳng đến mức phải gọi cái cách tồn tại của họ là nửa đời nửa
đoạn.
Trong những trường hợp có thể, Nguyễn Công Hoan đã sòng phẳng.
Cách tồn tại riêng trong nghề
Một kiểu
người Việt
Tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan, người ta không khỏi
nhận ra một sự éo le rõ rệt. Một mặt, đây là một trong những cây bút hàng đầu
của nền văn học dân tộc trong thế kỷ XX,
một đô vật lực lưỡng trong trường văn
trận bút. Mặt khác, đó hình như lại
là cây bút đặt rất ít sự nghiêm chỉnh
vào sáng tác.
Như ông đã
kể, có lần ông mang truyện của mình tặng cho người khác để người đó bán
cho các báo lấy tiền.
Lại như cái cảnh ông vừa chơi bài vừa viết
truyện, hoặc viết tiểu thuyết đăng báo
mà không thuộc hết tên nhân vật, phải để trống rồi nhờ toà soạn điền hộ.
Người đời vốn ranh mãnh. Có làm như vậy đi chăng nữa thì họ cũng giấu
biệt đi không muốn cho ai biết. Trong khi đó, Nguyễn Công Hoan lại bô bô kể hết cả ra trong sách.
Qua những phát biểu trực tiếp cũng như qua
cách làm việc của ông, thấy toát lên cái ý chẳng qua do lọc lõi thạo đời thì viết cho mọi người cùng đọc chứ trong bụng chả buồn để tâm gì đến nghĩa lý với lại vai trò
rắc rối mà người ta thường gán cho nghề nghiệp này.
Đại khái ông không phải trăn trở nhiều khi ngồi trước
trang giấy, thảng hoặc đôi lần có để ý đến ý nghĩa xã hội của công việc ( như khi viết Bước đường cùng ) thì cũng là làm vội
làm vàng, chứ chưa phải đã dồn hết vào đấy tất cả tâm sức vốn có.
Nguồn cảm hứng nào đã thúc đẩy Nguyễn Công Hoan kể chuyện mình theo kiểu như vậy ?
Chúng tôi có cảm tưởng điều đầu tiên ông muốn truyền đạt tới mọi
người, ấy là viết văn phải có năng khiếu và sự thành công không thể do ý
chí hay day tay mắm miệng mà có được.
Vốn thích đề cao những gì gọi là tự nhiên
ông chúa ghét những nhà văn nào quan trọng hoá nghề nghiệp của mình và lấy sự
viết lách ra để lừa bịp.
Sự dông dài tuỳ tiện mà ông hay nói, đúng
hơn sự đùa bỡn mà ông cố ý phô ra, là
một cái gì quán xuyến trong ông, nó buộc người ta sau đó phải hiểu dần ra những điều đơn giản mà ông
muốn nói: việc viết văn cũng là một
việc thường như mọi việc khác trên đời hoặc gán cho văn chương có lắm ý nghĩa đâu đâu tức là chẳng hiểu gì về nó cả.
Ở chỗ này có thể nói cách làm của Nguyễn
Công Hoan trùng khít với một xu thế của tư duy hiện đại ấy là nhìn đời sống ở
một khoảng cách gần gũi, phi huyền thoại hoá nó, làm cho mất đi cái vẻ thiêng liêng giả tạo mà con
người trung đại thích dùng để tự tô vẽ.
Đồng
thời sự phi huyền thoại hoá này, tác giả còn đi gần tới một quan niệm khác cũng chỉ thấy
ở con người hiện đại, ấy là nhấn mạnh tính chất trò chơi của cuộc đời, và cho
rằng trong trò chơi, cả ý nghĩa nghiêm chỉnh lẫn cái vẻ hư vô của kiếp nhân
sinh có dịp bộc lộ. Chơi để sống cho nhẹ nhàng và nếu có phải chết cũng là chết
một cách thoải mái.
Trong tiếng Việt chữ chơi hay gợi ra cái ý ham vui, gặp
chăng hay chớ, chả cần để tâm vào việc gì
mà tha hồ làm nhanh làm ẩu làm hàng giả
bịp bợm.
Có thể nói Nguyễn Công Hoan chơi với nghĩa khác. Chơi ở đây thuộc về một cái gì nằm trong cách nhìn đời trong ý thức của con người nó giúp cho một cây bút như tác giả Bước đường cùng thêm hào hứng trong sự sáng tạo, khi viết tìm thêm được những trò hóm nghịch lôi cuốn bạn đọc.
Có thể nói Nguyễn Công Hoan chơi với nghĩa khác. Chơi ở đây thuộc về một cái gì nằm trong cách nhìn đời trong ý thức của con người nó giúp cho một cây bút như tác giả Bước đường cùng thêm hào hứng trong sự sáng tạo, khi viết tìm thêm được những trò hóm nghịch lôi cuốn bạn đọc.
Truy nguyên về tận nguồn gốc, có thể bảo cái
sự nhởn nhơ ở Nguyễn Công Hoan còn thuộc về hồn cốt dân tộc mà ông thấm nhuần
trong dòng máu mình.
Rải rác trong các đoạn trên chúng ta đã
nhắc qua một số đặc điểm làm nên cách nhìn đời sống của Nguyễn Công Hoan bộc lộ qua
các truyện ngắn truyện dài đã in:
Thích sự tự nhiên và luôn luôn tự nhắc nhở
mình là phải giữ bản sắc.
Không tin lắm ở sách vở mà thích đề cao một sự khôn
ngoan trời cho.
Trong khi gắng gỏi học theo mọi người thì bề ngoài lại tỏ ra
không coi cái gì là quan trọng và xem
thường mọi chuyện.
Lấy sự cười đùa làm vui tự nhiên, bài bác những sự quan trọng
hoá giả tạo song lại sẵn sàng để tâm và tỏ ra rất thích thú với những sự sắp
đặt tinh xảo v...v....
Đến Đời viết văn của tôi thì chúng ta lại gặp cái tinh thần đó trong
chính con người tác giả.
Trong khi nhìn lại đời mình, nhà văn hiện ra
như một cá tính cụ thể, mà trong đó đồng thời
thấy bao hàm những con người khác những cuộc đời khác. Xét theo nghĩa
này, Đời viết văn của tôi là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong sự nghiệp của tác
giả./.
1997.
1997.