Sinh thời Nguyễn Tuân,
các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành
tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới 1999 thì khai sinh cho nó
thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Chúng ta có dịp đọc
lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa
thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời ),
Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi
hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn
Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tuỳ bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản
mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong
cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng
một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém
treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý
“Lúc
quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết
kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh.
Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan
đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống
bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ
Bồ trong Tuỳ bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói
tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận
xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn
ít khi là thực”.
Cùng trong Tuỳ bút II, lại có một bài
khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên.
Đây là câu chuyện về
một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa
ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết.
Nhưng, như có tiền
định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng.
Bói bằng cách khai bút
thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối
cùng”.
Ra sông bói đò thì nhỡ
đò.
Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào
xanh lè không có đầu”.
Sau hết, tối lần ra
chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là
một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám
đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc
và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp
(cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn
sách chưa đầy 200 trang).
Ở đây, khi nói rằng có
một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên
tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi
rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ
quái”.
Trong hai tập phóng sự
này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu
lên:
“Gớm sao
mà Bồ Tùng Linh thế!”
“Sao mà Edgar Poe thế!”.
Trong quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi
sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt
lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của
người bồi tiệm)
3. Một số người lầm
tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của
Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945.
Nhưng không phải vậy.
Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại
không khí một vùng buôn lậu, ông viết:
“Danh từ
Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có
sự rùng rợn của thuỷ hoả đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa
những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia
lên giời (...)” (bài Cống Thần, in trongTuỳ bút kháng chiến.)
Sau này, viết Tình
rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá
xa.
“Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám
cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen
nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy
người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản
thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”.
Hoặc như, khi Kể
chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn
ở nơi mà người ta hay bảo là có ma.
“Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương... Đêm thanh
vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên
từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà
thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là
tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió
lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với
ánh trăng suông...”
4. Một phần tâm huyết
của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình.
Nhưng đó là những
trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói
cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc
bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái
phần con người riêng của ông.
Dĩ nhiên, là người đã
viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người
khác.
Chẳng hạn, trong số
rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc
trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một
mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”.
Đọc Tắt đèn ông
liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật
địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô
đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”.
Còn khi trở lại với
thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn
bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở
ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải
nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút
chì và lấy quá tay hoá ra hóc thỏi chì.
Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên,
đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra
lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết
hợp văn hoá Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những
trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của
ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin
nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã
xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.
Nhưng đây là một câu
chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.