Trong không khí của kỷ niệm 60 năm Tự Lực văn đoàn, chúng tôi xin giới thiệu ba bài tựa của Khái Hưng viết cho các tác phẩm của Tú Mỡ và Thạch Lam , trong đó bài cuối cùng được viết vào tháng 7-1943 tức là đúng 70 năm trước.
Những ghi nhận về đóng góp của nhóm Tự Lực thường chỉ dừng lại ở việc đánh giá cao những tác phẩm nổi tiếng của các cây bút chủ lực trong văn đoàn. Theo ý chúng tôi lẽ ra chúng ta cần phải chú ý tới cả một quan niệm về văn học mà các nhà văn trong nhóm đã theo đuổi trong đó ít nhất bao gồm
-- về sứ mệnh của văn học trong đời sống
--về công việc mà những nhà văn với tư cách nhà hoạt động văn học phải đảm nhiệm
Không phải ngẫu nhiên mà từ Nhất Linh tới Thế Lữ, từ Thạch Lam tới Xuân Diệu, các ông đều là những người tham gia vào việc tổ chức nên đời sống văn học. Khi cần các ông viết báo viết tin viết đủ loại điểm sách, giới thiệu sách.
Vấn đề không chỉ ở chỗ ngòi bút các ông có một trường hoạt động rộng rãi.
Mà điều đáng nói hơn, văn hóa sáng tạo của các ông là rất chắc chăn, tự ý thức nghề nghiệp của các ông rất cao.
Vấn đề không chỉ ở chỗ ngòi bút các ông có một trường hoạt động rộng rãi.
Mà điều đáng nói hơn, văn hóa sáng tạo của các ông là rất chắc chăn, tự ý thức nghề nghiệp của các ông rất cao.
Cái phần đóng góp của mỗi người trên phương diện lý luận phê bình cũng là một chỉ số để đánh giá một nhà văn.
Với những Hồn bươm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Tiêu sơn tráng sĩ, Trống mái, Thanh Đức, Khái Hưng quá nổi trên phương diện tiểu thuyết. Cho đến truyện ngắn của ông, sự giới thiệu cũng rất dè dặt, nói chi đến những bài báo vặt..
Thật ra trên phương diện viết báo Khái Hưng cũng là một ngòi bút tràn đầy sức lực.
Chúng tôi hiện đã sưu tầm được một số bài tường thuật điểm sách ý kiến ngắn bàn về văn học, cùng các loại tạp văn của ông, xin hẹn giới thiệu vào một dịp khác.
Trước mắt mời bạn đọc đọc lại Khái Hưng qua những lời tựa -- một việc mà người ta chỉ thấy trong văn học tiền chiến , còn với các lớp nhà văn sau 1945, là hiện tượng quá hiếm.
LỜI TỰA VIẾT CHO DÒNG NƯỚC NGƯỢC
VĂN
BÁC HỌC VÀ VĂN BÌNH DÂN
Cũng
như nhiều nền văn chương cổ kim, văn chương nước ta có rõ rệt hai dòng: Dòng
bác học và dòng bình dân.
Dòng
bác học, ta có thể ví vớí con sông, hai bên bờ có đê kiên cố để làn nước không
tự do tràn ra đồng bằng được, phải lặng lẽ theo lòng sông mà chảy thẳng ra
biển. Chỗ nào ngòng ngoèo quá thì người ta đào lạch cho nước thông mau, chỗ nào
nông quá thì người ta khơi sâu thêm cho nước dễ thoát.
Trái
lại, dòng bình dân chỉ ví như cái suối chảy trong vùng đồi núi hoang vu, quanh
co, lượn khúc cạnh rừng lau mọi rợ hay bên bờ rậm dầy cỏ sắc hoa dại, có khi
thì thầm róc rách trong khe, có khi ầm ầm đổ xuống thành ngàn thành thác, lại
có khi gặp tảng đá lớn ngáng giữa dòng, hung tợn vọt ngược lên cao.
Đê và
lạch đối với con sông, cũng như -- đối với nền văn chương bác học -- những luật
lệ qui tắc nhất định mà các văn nhân đạo mạo tự bắt buộc phải theo. Ở nước ta,
tuy không có những sách văn pháp như ở bên Thái Tây, song đời đời người ta cứ
lề lối cũ của Tàu mà bắt chước, không hề dám suy suyển: Văn sách, kinh nghĩa
phải thế nào, thi phú, từ khúc phải thế nào, đặt câu bằng bằng trắc trắc ra
sao, làm bài phá thừa luận kết ra sao, nhất nhất không dám mảy may thay đổi.
Văn
chương bình dân thì chẳng mấy khi theo luật lệ qui tắc. Khi nào miễn cưỡng
theo, cũng hục hặc phá phách như con ngựa bất kham, vì dùng vần thất niêm thất
luật be bét, dùng chữ và tiếng sai nghĩa lung tung. Song, chính nhờ đó mà nền
quốc văn đã có lắm chữ mới và lối văn mới đặt rất bạo, thí dụ như những thổ
ngữ, những thi ca lục bát, song thất lục bát, tứ tự, cùng là các lối vè có vần
ở giữa câu.
Về
hình thức thì thế, mà về ý tưởng cũng vậy. Trong văn chương bác học, ta thấy
đầy những điển tích chép nhặt trong các sách Tàu. Trong một bài diễn văn, ông
Lê Dư thực đã bênh vực cho nền văn bác học bằng một câu rất có ý nghĩa:
"Văn không có điển tích không phải là văn". Nào chỉ có điển tích. Văn
chương bác học nước ta lại còn phải ở trong khuôn phép thánh hiền, không bao
giờ được vượt ra ngoài những tư tưởng luân lý, như tam cương, ngũ thường.
Không
dùng điển tích, không hề đạo mạo, đó là hai tính cách cốt yếu của văn chương
bình dân. Và tuy cũng theo luân lý cổ nhưng văn chương bình dân xiết bao giản
dị với những tính tình chân thành, với những nguyện vọng thiết thực. Khi bọn
bình dân gặp một sự gì trái ngược với tính tình và nguyện vọng của họ, họ liền
mạnh bạo thốt ra những lời văn oán trách chẳng chút rụt rè che đậy bằng những ý
tứ mập mờ, bóng bảy, cao xa. Ta hãy nghe bài hát sau này của một người đàn bà
nhà quê, về thời vua Minh Mệnh:
Tháng
tám có chiếu vua ra,
Cấm
quần không đáy người ta hãi hùng.
Không
đi thì chợ không đông,
Đi
thì bóc lột quần chồng sao đang.
Có
quần ra quán bán hàng,
Không
quần đứng nấp đầu làng trông quan.
Lời
văn thành thực giản dị mà táo bạo và ngộ nghĩnh ấy, không hề thấy có trong văn
chương bác học, tuy văn chương bác học cũng nhiều khi nhiễm tư tưởng trào
phúng, - cái trào phúng nặng nề đầy điển tích và nhút nhát rụt rè đối với kẻ có
quyền thế.
Vì
vậy, muốn biết tập quán, phong tục trong dân về thời nào, không gì bằng đọc văn
bình dân, nghĩa là những ca dao tục ngữ của thời ấy: đó là những cái gương phản
chiếu tính tình và nguyện vọng của cả một thời đại. Hát một câu ca dao hay, ta
biết cổ nhân vui hay buồn, sung sướng hay khổ sở. Ta ngậm ngùi rằng tác giả
không để tên để tuổi lại hậu thế. Song đó cũng là một tính cách bình dân: Sống
không để ai biết đến, có danh vọng cũng không cần ai hay. Những áng văn vô danh
kia, đời đời ta truyền khẩu cho nhau, không bao giờ để mai một đi, như thế cũng
đủ làm hài lòng bọn bình dân rồi,vì họ đã lưu lại được cái linh hồn chân thật
của cả một nòi giống.
Song
tuy thế mà thỉnh thoảng ta vẫn thấy một vài tác giả có chân tài trong phái bình
dân. Đó là một sự rất hiếm trong văn giới nước ta, vì bọn học giả mình thường
chỉ biết ngày xưa theo văn Tàu, ngày nay theo văn Tây, - có khi theo một cách
nô lệ, - mấy ai đã lưu ý đến văn chương bình dân.
Mà
thực ra thì ta vẫn khao khát được đọc văn bình dân, ta vẫn quý trọng các nhà
văn bình dân. Hồ Xuân Hương tuy lẳng lơ nhưng vẫn được ta yêu tài và truyền
tụng những bài thơ cợt nhả. Vì là một nhà văn bình dân. Ông Tú Xương tuy mỉa
đời mà vẫn được đời kính mến. Vì ông là một nhà văn bình dân. Và ngày nay Tú Mỡ
tuy tinh nghịch đùa bỡn, chế nhạo mà vẫn không mấy người ghét được. Vì Tú Mỡ
cũng là một nhà văn bình dân.
So
sánh Tú Mỡ với ôngTú Xương và cô Xuân Hương, hẳn có người cho là hơi quá, vì họ
thấy hai bậc văn hoà kia tuy viết văn giản dị song đều ở trong phái nho học,
còn Tú Mỡ thì lại là một nhà Pháp học. Nhưng văn bình dân không cần cỗi rễ ở đâu hết, quý hồ tả
được tính tình và cốt cách của cả một dân tộc là đủ rồi.
Mà văn
Tú Mỡ thì cũng như văn Tú Xương, văn Hồ Xuân Hương, cũng như những câu ca dao,
tục ngũ, quả thực hoàn toàn có tính Annam.
Ngày 25 tháng 9 năm 1934
LỜI TỰA VIẾT CHO GIÓ ĐẦU MÙA
Viết
truyện ngắn nào có khó gì đâu. Một sự xảy ra ngoài phố làm rung động trái tim
ta, một câu chuyện thuật trong phòng khách làm nở một nụ cười khoái trá trên
môi ta, một khu rừng âm u lạnh lẽo, một xóm nhà tranh rải rác dưới ven đồi, một
cái quán bán nước, một cái xe với anh phu kéo... hay không cái gì cả, sự
trống rỗng một phút, một giây của tâm hồn. Những cảnh tượng ấy, dù trọng dù
khinh đều là đầu đề câu chuyện ngắn, đều kích thích trí nghĩ ta mà ngấm ngầm tự
cấu tạo nên một câu chuyện ngắn. Ta chỉ việc viết lên giấy những điều trông
thấy, nghe thấy và những ý tưởng nẩy ra trong thâm tâm ta. Có thế thôi. Cái khó-
nếu quả có cái khó- chỉ ở chỗ phải có biết thế thôi.
Đó là
quan niệm về truyện ngắn của Thạch Lam, tác giả tập truyện Gió đầu mùa.
Một
gia đình hai vợ chồng trẻ với đứa con đầu lòng mới ra đời, một dẫy phố chợ tồi
tàn với bọn ngụ cư nghèo đói, cái vui sướng của một người thất nghiệp về làng
sống với dân quê, sự đùa bỡn oái oăm của duyên số, cái kết quả tai hại của một
cơn giận, sức áp bức quyết liệt của sự đói, cái chết đau đớn của người bạn trẻ
nghèo... Toàn truyện giản dị cả. Muốn tả những sự xẩy ra hàng ngày ấy tác giả
không cần đến những tình tiết ngoắt ngoéo tối tăm, nhiều khi rất trẻ con mà ta
thấy nhan nhản trong những truyện kiểu cách, loè loẹt của những nhà văn thiếu
thành thực.
Thành
thực, đó là đức tính không có không được của nhà văn. Ở Thạch Lam, sự thành
thực lại trở nên sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả
tâm hồn vì sự thành thực (những đoạn tả trong truyện Ngày mới).
Tôi
xin thú thật rằng những điều nhận xét gay go về mình, và những người sống chung
quanh mình, tôi cũng thường có, song vị tất đã dám viết ra. Nhưng sao lại thế
nhỉ? Đáng lẽ bọn nhà văn chúng ta ai cũng phải can đảm hơn người thường. Đáng
lẽ ta phải mạnh bạo viết những điều mà mỗi người, mà ta, nhất là ta, giấu kỹ ở
tận đáy linh hồn, những nỗi băn khoăn, những sự vui mừng lo sợ, tức tối, thèm
muốn, ghen ghét đang ẩn náu trong khối óc, trong trái tim ta. Tỗi vẫn ước ao
cái can đảm ấy, nhưng không sao có được, cái can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà
trong đám văn sĩ mới nước ta, tôi thấy ở Thạch Lam.
Lòng
ta là một thế giới mênh mang. Nếu ta để trí suy xét của ta len vào các ngách,
các nơi kín tối, chăm chỉ tìm tòi ta sẽ thấy nhiều sự mới lạ. Tưởng sống tới
trăm tuổi ta cũng không biết thực rõ được lòng ta.
Phái
tả chân thường khoe khoang chỉ suy xét theo phương diện khách quan, liệu có
được không? Tả một người giận dữ mà chỉ là những hiện trạng của sự giận dữ thì
bức tranh của ta không thể đầy đủ được.
Muốn
nó đầy đủ ta phải hỏi lòng ta, ta phải hỏi ký ức ta xem khi ta giận thì trí
nghĩ và tính tình ra sao, thì cảm giác ta ra sao, hơn thế, ta phải sống lại một
cơn giận. Người chủ động trong truyện Một cơn giận của Thạch Lam, có thể
chỉ là Thạch Lam. Ông tự vẽ ông. Nhưng cũng có thể là bức tranh tả chân hết
thẩy ai ai trong một cơn giận vô lý giữa lúc ta thấy "lòng ta chán nản
và buồn bực, những ngày tự nhiên không hiểu tại sao ta thấy khó chịu và hay gắt
gỏng".
Có lẽ
vì không bao giờ rời bỏ phương diện chủ quan nên Thạch Lam dễ làm ra rung động:
trước ta, chính ông đã rung động. Tả cái lạnh đầu mùa, ông nhớ ngay cái cảm
giác mà ông có một đêm mưa rào, rồi bỗng trở ra gió bấc( Gió lạnh đầu mùa).
Ông tả cái ngõ hẻm ở một xóm quê bằng cái cảm giác của ông đi qua nơi đó:
"Một cái cảm giác mát lạnh bỗng tràn lên hai vai. Tân ngửng đầu lên nhìn:
chàng vừa đi vào dưới vòm tre xanh trong ngõ" (Trở về).
Cả
đến một buổi gặt, ông cũng tả bằng cảm giác của ông: "Tân chú ý đưa cái
hái cho nhanh nhẹn, mỗi lần bông lúa rung động chạm vào mặt, vào người, mùi lúa
chín thơm lại phảng phất với mùi rạ ướt mới cắt. Mùi thơm đó làm chàng say sưa
như men rượu" (Những ngày mới).
Nếu ta
có thể chia ra hai hạng nhà văn, nhà văn thiên về tư tưởng, nhà văn thiên về
cảm giác, thì tôi quả quyết đặt Thạch Lam vào hạng dưới. Ở chỗ mà người khác
dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói, một
cách giản dị cái cảm giác của ông. Các cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của
tác giả và của độc giả, và của độc giả nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn trí, vì có
cái cảm thấy mô tả không thể dùng tư tưởng để mô tả, để giải phẫu cái cảm giác
của ta ra được, dù là một cái cảm giác nhẹ nhàng, cái rung động khẽ như cánh
bướm non ấy là một tình cảm sâu xa.
Thực
vậy, những cái cảm giác đạm mạc như thế mà ta thấy trong khắp các truyện của
Thạch Lam đều giấu một mối tình sâu xa.
Tác giả, mà ta tưởng rát điềm tĩnh, kỳ thực là một người có những tính tình
mãnh liệt, quá khích nữa. Đứng trước sự khốn khổ của bác Lê, tác giả chỉ thủ
thỉ nói: “Giá cứ có người mướn làm thì
cũng không đến nỗi ”. Nhưng trong cái thủ thỉ ấy, ta cảm thấy lòng tức giận,
lòng oán trách xã hội lên đến cực điểm.
Sáu
năm xa cách, người con giàu có về thăm mẹ già nghèo ở nhà quê, khi hắn ta từ giã bà cụ ra đi , tác giả thản nhiên lạnh
lùng viết: “Ra đến ngoài Tân nhẹ hẳn mình. Chàng tự cho đã làm xong bổn phận”.
Nhưng sự lạnh lùng ấy giấu một tính tình khinh bỉ, một cảm tưởng chua chát
không biết đến chừng nào
Những
kẻ giàu có huyênh hoang trong bọn trưởng giả như người con trong truyện Trở
về Thạch Lam rất ghét, cũng như ông
rất thương rất yêu bọn nghèo đói, bọn bác Lê, anh Sinh, anh Dư...Ông đem hết
tâm hồn ra để ghét tuy ông chỉ lãnh đạm nói đến họ. Lòng ghét âm thầm và dữ dội
của ông có khi làm cho ông thiên lệch. Một lần nghe tôi đọc đến tên một người
bạn giàu sang, ông chau mày nói:”Ô! Tôi ghét hắn ta lạ. “ Tôi chưa kịp hỏi vì
lẽ gì, thì ông đã tiếp: "Trông cái má hắn ta phinh phính, cái bụng hắn
ta xệ xệ!".
Rồi ta
sẽ thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam rất nhiều nhân vật có cái bụng xệ,
Thạch Lam sẽ trút lên đầu họ hết cả sự căm tức, oán trách một xã hội trưởng
giả, bất công, tàn ác đối với những khốn khó đáng thương mà Thạch Lam tha thiết
binh vực an ủi.
3-9-1937
LỜI TỰA
VIẾT CHO HÀ NỘI BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG
Hà Nội
Thăng Long - chốn cố đô yêu dấu của chúng ta đã gần hai nghìn năm soi bóng trên
giòng sông Nhị. Và nó sẽ mãi mãi soi bóng trong lòng người Nam Việt, khi mà mỗi
thời còn có những trang phong lưu mặc khách đem ghi chép trong văn, thơ, để
truyền lại hậu thế cái đời sống của nó, cái lịch sử của nó.
Lịch
sử Thăng Long phải đâu chỉ là những lớp sóng phế hưng dồn dập từ đời vua này
sang đời vua khác, kế tiếp nhau mà xây cung điện nguy nga ven hồ Trúc Bạch, bên
hồ Hoàn Kiếm? Nó còn là cuộc sinh hoạt hàng ngày của dân thành thị, với tất cả
những phong tục, tập quán, với tất cả những nhân vật kỳ khôi, với tất cả những
cái vui, cái buồn, cái tức, cái giận nho nhỏ và thoáng qua của những tâm hồn
nho nhỏ sống trong xó tối, không tên không tuổi, không tiếng tăm lưu lại đời
sau.
Mà
những nhà biên tập pho sử ký bình dị này thường cũng không tên không tuổi không
tiếng tăm lưu lại đời sau. Song những sử gia ấy, dù vô danh hay hữu danh, đều
được công chúng yêu chuộng biết bao! Và những trang sử của họ có khi không cần
đem in ra nhiều bản, chỉ truyền tụng từ miệng này sang miệng khác. Thế mà đó
đều là những tác phẩm bất hủ, vì đã thành ca dao, tục ngữ, hoặc những giai
thoại trong dân gian.
Long
Biên, cái tên thứ nhất của Hà Nội, Long Biên mà một thi sĩ đã ca tụng trong một
bài Đường luật:
Long
Biên đã đắp tự đời nào?
Chẳng
thấp nhưng mà cũng chẳng cao.
Chăm
chắm ngoại thành xây cũng đẹp,
Cồn
cồn giòng nước chảy tuôn vào.
Long
Biên đã đắp tự đời Cao Biền, nhà thơ Thăng Long cũng chẳng thèm biết. Đến cả
hai chữ Cao Biền, thử hỏi trong dân chúng, mấy ai còn nhớ, nếu đó không là một
tên thầy địa lý cao tay mà mọi người khiếp sợ. Môn chính trị xa họ bao nhiêu
thì môn địa lý gần họ bấy nhiêu, gần với tín ngưỡng và tập quán của họ. Nếu Cao
Biền chỉ là một chính khách khôn khéo, một nhà tổ chức có đại tài, thì y đã
chết từ lâu trong ký ức dân Hà thành rồi. Phần dã sử hầu hoàn toàn chiếm lấy
cái đời lạ lùng của nhà đô hộ. Mà phần dã sử ấy -- nghĩa là thiên sử ký phong
phú nhất, thật nhất vì sản xuất từ trí thành thực, chất phác của dân -- phần dã
sử ấy không ra ngoài môn địa lý. Nào truyện "Cao Biền dậy non", nào
truyện "Cao Biền cưỡi diều đi tìm đất", nào truyện "Thần Tô Lịch
hiện lên mách đất cho Cao Biền". Bao nhiêu truyện kỳ dị và biến đổi tuỳ
theo tài tưởng tượng của từng người kể, mà trong đó, môn chính trị của Cao Biền
không dấu vết.
Cao
Biền xa ta quá và đã hầu là một nhân vật hoang đường. Đến như những nhân vật
gần chúng ta hơn mà sử ta đã ghi chép tường tận những huân công võ lược, cũng
không còn có vang bóng gì trong trí nhớ dân chúng Hà Thành và Nam Việt. Đã mấy
ai biết rằng trên sông Nhị kia, dưới gầm cầu "Giốc gạch", hàng trăm
thuyền lớn của Chế Bồng Nga đã chen chúc đậu và từ đó hàng nghìn hàng vạn quân
Chiêm Thành, cởi trần, da nâu và bóng như đồng mắt cua, đã giương nỏ mạnh bắn
những tên lửa lên các phố, các phường đầy dân thành thị tranh nhau chạy loạn?
Rồi
tới nhà Lê, họ Mạc, họ Trịnh kế tiếp nhau xây dựng lâu dài bên hồ Tây và hồ
Hoàn Kiếm. Thì nay cũng chỉ:
Thời
cũ lâu dài bóng tịch dương
Trong
bóng tịch dương của thời gian và cả của lòng người.
Nhưng
lòng người vẫn ghi nhớ những điều muốn ghi nhớ, những điều thuộc phạm vi mỹ
thuật, và tình cảm... Lòng người coi thường trận thuỷ chiến kinh thiên động địa
của họ Chế. Nhưng lòng người đã không quên cái tình cảm đáng thương của một
nàng công chúa nhà Trần lọt vào tay anh Chàm đen đủi.
Công
chúa lấy thằng bán than,
Nó
đưa lên ngàn cũng phải đi theo.
Người
Hà Thành đọc lại câu ca dao cổ gần nghìn năm, tác phẩm của một văn nhân Thăng
Long đầy trắc ẩn còn như đứng bên bờ sông Cái mà nhỏ lệ trông theo nàng Huyền
Trân sừng sững trên sàn lái một chiếc thuyền bồng giương buồm, thuận gió chạy
ra biển để xuôi nam. Hình công chúa thon thon in bật lên nền trời sắc máu. Và
dân Thăng Long chờ cho con thuyền lượn khuất sau cồn Phúc Xá mới chịu rời bước
trở về nhà ngậm ngùi than tiếc:
- Ngọc quý ngâu
vầy!
-
Thương thay cây quế giữa rừng,
Để
cho thằng mán thằng mường nó leo.
Đối
với dân Thăng Long, cũng như đối với dân Hà Thành ta ngày nay, rất mập mờ về
khoa địa dư: Người mạn ngược hay người Chiêm, người Mên, họ đều cho là Mán, là
Mường cả.
Vào
thời giữa hai triều Trần và Lê, dân Thăng Long hẳn là lao đao khổ sở, hết chạy
loạn Hồ đến chạy loạn Minh. Nhưng rồi người ta cũng chỉ còn ghi vào nhật ký,
vào sử ký - sử ký của dân- những việc tức cười đau đớn:
Cái
nợ Liễu Thăng!
Và cái
chết của Nguyễn Trãi gây nên. Và theo lời dã sử -- do sự báo oán tiền kiếp của
một cô gái Tây Hồ bán chiếu, một nữ thi sĩ tinh nghịch cười đùa như Xuân Hương:
Em ở Tây Hồ bán chiếu gon
...
Chồng còn chưa có hỏi chi con?
Dân Hà
Thành ta từ xưa vẫn thích cười: cười buồn cũng như cười vui. Thỉnh thoảng lại
phà lên một tiếng cười bi ai chua chát. Hay tiếng cười lỡm của cống Quỳnh về
thời hậu Lê dưới quyền hống hách của chúa Trịnh. Và không biết ai đã thốt ra
một câu ca dao quá quắt để mỉa mai ông quan thị mà chúa Sâm giao cho cái trọng
trách canh phòng một nàng công chúa yêu?
Đó là
cách viết sử của chúng ta. Nếu nói được rằng nhà sử đích đáng là biết chép
những điều đáng chép và bỏ những điều đáng bỏ thì các sử gia Thăng Long thực đã
làm tròn phận sự. Đã chép nhưng cái hoàn toàn có tính cách Thăng Long và Nam
Việt. Còn gì Nam Việt hơn truyện Tấm Cám hiện nay vẫn lưu truyền ở cửa miệng,
từ thành thị cho chí thôn quê. Đó là một truyện, một việc Thăng Long, đã xảy ra
ở đất Thăng Long: Tấm, Cám là hai chị em khác mẹ quê ở mạn Đình Dù lấy chung một
chồng: một chúa Trịnh.
Nhưng
phải chờ hàng chục năm nữa, mới thấy được những nhà biên tập cho cuốn sử Hà
Thành có tên có tuổi để lại hậu thế. Đó là nàng Xuân Hương, rồi chàng Tú Xuất,
chàng Ba Giai.
Chúng
ta đi qua chùa Quán Sứ, ai mà giữ được không thầm đọc bài thơ tuyệt tác của
Xuân Hương, tuy chùa Quán Sứ ngày nay chẳng còn nữa cái cảnh vắng teo, cái
cảnh:
Sáng
banhh không kẻ khua tang mít
Trưa
trật nào ai móc kẽ rêu.
Tôi
chắc không nơi danh thắng Hà Thành nào lại không có vết tích các nhà văn yêu
Thăng Long ấy, lại không được dự một phần vào cuốn sổ nhật ký, vào tập văn tuỳ
bút của họ. Có lẽ chỉ vì không người gìn giữ cho nên những áng văn quý báu đã
thất lạc mất cả, những áng văn mà người đạo mạo đồng thời coi thường là văn
chương đùa bỡn hay nhỏ mọn, không đáng kể, không đáng lưu lại hậu thế...
Đến
thời chúng ta, đến Tú Mỡ và Thạch Lam...
Như Ba
Giai, Xuân Hương (cùng một họ Hồ với Tú Mỡ), Tú Mỡ đã giễu các nhân vật Hà
Thành và khiến được họ bất hủ. Tú Mỡ yêu Hà Thành chẳng kém bọn Tú Xuất và Xuân
Hương, yêu một cách tinh quái, ranh mãnh, ngạo ngược, nhưng rất yêu.
Người
yêu Hà Thành thấm thía hơn, âm thầm hơn là Thạch Lam.
Cũng
có lúc Thạch Lam mỉm cười thương hại như Cống Quỳnh, như Xuân Hương trước những
cái dốt Hà Thành, trước những cái biển hàng chữ Pháp rất lố lăng và dở nát của
các bác phó may của các anh thợ vẽ, của các bác phó cạo, của các ông hàng vải.
Thạch Lam lại cũng tức giận như Xuân Hương khi thấy người ta vô tâm hay hữu ý
làm mất vẻ đẹp nơi thành phố xinh xắn của chúng ta.
Xuân
Hương viết:
Ai
về nhắn nhủ phường lòi tói,
Muốn
sống đem vôi quét giả đền.
Và
Thạch Lam thủ thỉ - bao giờ Thạch Lam cũng chỉ thủ thỉ, dù tức giận đến đâu:
"Những
thanh sắt ở đó (Chùa Ngọc Sơn) cũng khá lâu rồi thì phải, mà chưa thấy uỷ ban
nào đó làm việc gì cả. Việc thì rất giản dị: nghĩa là bỏ những cái đó đi là
xong."
Nhưng
Thạch Lam lưu tâm nhất đến cuộc sống hàng ngày của Hà Thành, đến những cái thú
con con của dân thành phố, cùng là những nhân vật bé nhỏ, đã gây cho thành phố
cái tính cách đặc biệt của nó.
Ta hãy
nghe Thạch Lam mở mục quà Hà Nội với một giọng yêu đưong mà tự phụ của một dân
Hà Nội: "Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng là ngon lành và lịch sự. Ở các
thôn quê, chút "quà Hà Nội" là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hoá
của người cho..."
"
Nếu chúng ta về các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng
ta mới biết quà Hà Nội có vị ngon là chừng nào! Cũng là thứ bún chả chẳng hạn,
cũng rau ấy, bún ấy, thế sao mà bùn chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái
mùi thơm, và từ cái nước chấm ngon đi."
Ta như
nghe thấy tiếng nhai và tiếng xuýt xoa của người ăn bún chả. Ngon thật! Và cái
ngon cái đặc sắc của Hà Nội ấy đáng được người ta nói đến và chép lại như người
ta đã nói đã chép lịch sử bà Bé Tý, bà Tư Hồng, hai nhân vật Hà Nội nhất của thời
nay.
Và
Thạch Lam đã nói đến, đã ghi chép tường tận đầy đủ, tỉ mỉ với tất cả tấm lòng
yêu của Thạch Lam. Thạch Lam yêu cũng như Thạch Lam ghét. Đều tha thiết tuy đều
âm thầm.
Thạch
Lam thực là một nghệ sĩ, một thi sĩ về khoa thẩm vị. Nghệ sĩ muốn tận hưởng.
Thi sĩ tìm cảm hứng trong vi tế cũng như trong vĩ đại. Hiểu nổi Thạch Lam tất
đã phải biết như Thạch Lam rằng: "Ăn quà là một nghệ thuật: ăn đúng cái
giờ ấy và chọn người bán ấy mới là người sành ăn ." Tất phải đã đứng
ngắm nghía cô bán bánh cuốn Thanh Trì, dáng điệu uyển chuyển gánh hàng đi
vào trong phố hay ngồi nhanh nhẹn bóc từng cái bánh mỏng như tờ giấy và trong
như lụa."
Thạch
Lam không quên một thứ quà rong nào, mỗi thứ Thạch Lam đều tả hết cái hương vị,
cái hình thức đặc biệt của nó, hương vị và hình thức truyền lại không biết tự
đời nào. Nếu Thạch Lam thích làm thơ thì hẳn đã viết những bài Đường luật hay
tứ tuyệt để vịnh chiếc "bánh rán nóng một xu hai" hay
"cô hàng cơm nắm lẳng lơ với hai quang thúng bỏ chùng trông cũng ngon mắt
như quà của cô vậy". Y như những bài thơ vịnh ốc nhồi, vịnh bánh trôi
của Xuân Hương. Biết đâu Xuân Hương cũng không do cảm hứng trong khi xơi quà Hà
Nội mà đọc ra những bài thơ lưu truyền
kia.
Thạch
Lam không làm văn vần như Xuân Hương. Nhưng tứ thì phong phú, màu sắc sáng
tươi, nét vẽ nhịp nhàng, đã khiến nhiều đoạn văn xuôi của Thạch Lam trở nên
những bài thơ kháu khỉnh. Đây, ta hãy nghe Thạch Lam tả ăn quà bún ốc:
"Có
ai, buổi trưa vắng, hay lúc đêm khuya, đi qua nhà cô đào, nhà các chị thanh
tân, thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha thiết đến đâu không? Nước
ốc chua làm nhăn nét mặt tàn phấn và mệt lả; miếng ớt cay làm xoa xuýt những
cặp môi héo hắt, và khiến đôi khi rỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt
lệ tình.
"Cô
hàng ốc có một cái dụng cụ, một đầu là búa, một đầu là dùi nhọn. Một cái gõ nhẹ
và một cái trở tay, là con ốc nguyên cả ruột đã gọn gàng rơi vào bát nước chấm.
Cô thoăn thoắt rút ốc không kịp. Trông thấy người ta ăn ngon lành, chính cô
cũng sinh thèm: cô thú thật với tôi như thế "
Biết
bao nghệ thuật trong một bức tranh nhỏ mọn nhưng tinh tế. Và đến dược nghệ
thuật ấy không phải chỉ có tài, mà còn phải có lòng yêu. Yêu thành thực, yêu
trong thâm tâm, yêu những cái bé bỏng của những đời sống bé bỏng, nghĩa là yêu
Hà Nội, vì những cái bé bỏng ấy tức là tất cả Hà Nội.
Thạch
Lam vĩnh biệt Hà Nội, giữa một công cuộc mà anh đã tỏ ra có đủ tài năng đã theo
đuổi tới đích: công cuộc soạn một pho Hà Nội sử ký. Nếu anh còn ráng ở lại với
chúng ta, thì ngòi bút linh động của anh tả cái Hà Nội hiện thời này, hẳn phải
làm chúng ta...
20-7-43