Nhiều người Việt sống ở nước ngoài đã chia sẻ
với chúng ta cảm giác thương mến nhớ nhung khi xa Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó,
những ngày gần đây, người trong nước còn nhận được những lời tâm sự kín đáo và
những suy nghĩ thâm trầm .
Như
trường hợp Vĩnh Sính giáo sư đại học Alberta, Canada.
Tập
sách Việt Nam và Nhật Bản -- giao lưu văn
hoá (1) của ông có nội dung khá phong phú.
Có
bài khái quát Vị trí lịch sử của Trung
quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản
hoặc đề cập tới Trục giao lưu văn hoá
Nhật Bản Trung quốc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Có
bài giới thiệu về các nhân vật của lịch sử Nhật như Fukuzawa Yukichi và Asaba
Sakitarô .
Có
bài so sánh những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ với những đề án có tính
cách khải mông của những học giả trong hội trí thức Meirokusha.
Điều
đáng nói là ở đó người ta bắt gặp mấy đoạn ghi nhận về một khía cạnh còn đang
ít được nói tới trong tâm lý dân mình , nhưng lại rất thiết yếu với công cuộc
hội nhập đang được khởi động .
Lời nhắn nhủ của Vĩnh Sính bộc lộ trong
ba trường hợp :
1/ Thiên kỷ III đang mỉm cười là mấy trang
sổ tay, ở đó Vĩnh Sính chỉ kể lại ít điều ông ghi nhận được từ một hội nghị văn
hoá châu Á tổ chức ở Hàn quốc vào tháng 11-1998.
Khi
bàn về giáo dục, trước hết ông nhắc lại ý kiến của học giả Trung quốc Hà Phương
Xuyên là để vươn lên tầm thời đại, các dân tộc châu Á cần chuẩn bị hành trang
cho cuộc giao lưu văn hoá.
Rồi
ngay sau đó ông dừng lại khá kỹ ở một thứ chủ nghĩa quốc gia văn hoá, hay gọi
đích danh ra là một thứ “chủ nghĩa sô-vanh văn hoá ” cần phê phán.
Nguyên
đây là một ý trong bài phát biểu của giáo sư Hàn quốc Park Seong Rae bàn về Hội
chứng độc lập (independence syndrome) hay nói nôm na là “ bệnh độc lập ” của
đồng bào mình. Theo Park Seong Rae “ nếu người Hàn quốc càng nhấn mạnh độc
lập văn hoá của nước họ đối với các nước láng giềng ( Nhật Bản và Trung quốc )
-- chẳng hạn như cảm xúc nghệ thuật độc đáo của người Hàn quốc -- thì chính bản
thân họ lại càng phải chịu thiệt thòi nhiều hơn ” (tr 336).
Liên
hệ tới Việt Nam, Vĩnh Sính viết “ Hội
chứng độc lập trong con người Việt Nam cũng khiến đa số chúng ta thiếu tinh
thần tiếp thu những điều hay cái lạ của các nền văn hoá khác, đồng thời chỉ
thích nói về những gì hay ho ưu việt trong văn hoá Việt Nam hơn là nói ra những
khuyết điểm của mình để sửa chữa. Hội chứng độc lập cũng khiến ta thiếu tinh
thần khách quan khi buôn bán làm ăn hay giao lưu với nước ngoài, chỉ biết mình
nhưng không biết người ” ( tr. 337).
2/
Bài viết về Shiba Ryôtarô ( 1923-1996 ) giới thiệu một trong những tác giả đại
diện cho nước Nhật và một trong những người viết sử có ảnh hưởng nhất ở Nhật.
Ông
này có viết riêng một cuốn sách phân tích quá trình lịch sử Việt Nam. Theo ông
ở Việt Nam, “ làng xã vẫn là một đơn vị xã hội có tầm quan trọng hơn nhà nước
“(tr 280), và đó là một nhân tố gốc, nó quy định trình độ phát triển của xã hội
Việt. Theo tôi hiểu ý nhà
viết sử này muốn nói là tình trạng lộn ngược đó ( làng quan trọng hơn nước), là bằng chứng về tình trạng lạc
hậu rõ rệt của cộng đồng mà chúng ta đang sống.
Trên
đường đi vào tâm lý dân tộc, nhà nghiên cứu Nhật cho là người Việt có một số căn bệnh chưa biết bao giờ mới chữa nổi, như cái
tình trạng thiếu tinh thần hợp tác với nhau để làm việc chung .
Đặc
biệt, theo Shiba Ryôtarô, một khuynh
hướng của người Việt là “ xem người dân
tộc mình ưu việt so với người dân tộc khác ” ( các tr 288 –289), do đó là một sự cản trở đối với việc học
hỏi và chung sống với thế giới.
3/ Một dịp khác, Vĩnh Sính dừng lại ở câu chuyện
về một nhân vật của thế kỷ XVII.
Đó là
Chu Thuấn Thuỷ (1600-1682) một trí thức Trung quốc sống ở thời nhà Minh bị Mãn
Thanh xâm chiếm.
Trong
quá trình vận động phản Thanh phục Minh, có mấy lần Chu đã lưu lạc sang Việt
Nam.
Chính
quyền đương thời tức các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã có lúc tính chuyện dung
nạp ông, nhưng việc không thành, về sau Chu sang ở hẳn Nhật, trở thành một trí
thức có công giúp đỡ cho việc đưa nước này vào một giai đoạn hưng thịnh.
Những
ngày làm việc với người Việt được Chu ghi lại qua tập sách mỏng An Nam cung dịch kỷ sự dịch ra là Ký sự về việc phục dịch ở An Nam , 1657.
(2)
Dưới
con mắt Chu, xã hội Việt Nam hiện ra với những nhược điểm cố hữu của một cơ chế
khép kín ít tiếp xúc với bên ngoài. Ngay với thế giới Trung Hoa tưởng là quá
quen thì hiểu biết của người Việt cũng rất hạn chế.
Vừa
gặp Chu, các nha lại địa phương đã giở trò hống hách, bắt người ta lạy, hỏi
người ta bằng cấp gì, và nếu không có bằng cấp thì lập tức rẻ rúng.
Đúng là cái bệnh quá quê mùa và hay chấp nhặt
mà ngày nay tới thế kỷ XXI, chúng ta còn bảo lưu khá đầy đủ !
Đến
như những câu chuyện mà các bậc gọi là thức giả bấy giờ quây vào hỏi Chu Thuấn
Thuỷ thì phần lớn cũng là chuyện tầm thường.
Sự
yếu kém trong đời sống tinh thần của xã hội bộc lộ ở nhiều mức độ.
Thứ nhất là lối học chỉ hớt lấy những cái lạ mà thiếu cơ
sở học thuật, một sự ngây thơ trong tư duy khiến đương sự phải cười thầm “ Người quý quốc đọc những truyện như Tam quốc diễn nghĩa hoặc Phong thần mà cả tin là thật, cứ đến đây
hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. [Trong khi ấy thì lại
bỏ qua không nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam sử ]. Tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa
xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ ”
(tr.393).
Thứ hai là mê muội vì những trò mà nói theo thuật ngữ hiện đại là văn hoá
tâm linh. “ Nhưng tại sao chư quân tử từ trên xuống dưới lại cứ đến đòi xem
tướng số. Hỏi thật không nhằm chỗ, đến cuối cùng không biết là đã làm nhục Du
(Tức CTT). Người coi tướng, người xem sao đông biết bao nhiêu mà đếm cho hết.
Trong tứ dân (tức sĩ nông công thương -- Vĩnh Sính chú) và chín học phái
(tức cửu lưu : Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv… Vĩnh Sính chú ), họ là
hạng người thấp hèn nhất. So họ với nhà nho có đức nghĩa, khác xa một trời một
vực, như đen với trắng, như nước với lửa, hoàn toàn tương phản ” (tr 392).
Sau
hết, Chu cho rằng xứ này “ tuy là nước
nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể
tuyển chọn được người tài năng trong nước Dạ Lang của mình, nhưng không tránh
được vẻ ếch ngồi đáy giếng ” (tr.401).
Theo
ghi chú của Vĩnh Sính, “ nước Dạ Lang ” nói ở đây là một ẩn dụ, bắt đầu từ câu
chuyện có thật về một nước nhỏ thời Hán, trong giao thiệp với thiên hạ mắc bệnh
hoang tưởng, từng tranh luận với các sứ giả quanh chủ đề “ nước Dạ Lang so với
Trung Quốc bên nào lớn bên nào nhỏ ”. Dạ
Lang tự đại đã thành một thành ngữ có ghi cả trong các từ điển Hán—Hán
phổ thông như Tân Hoa, Tứ giác,
chuyên để chỉ những cộng đồng quen sống biệt lập nên không có ý thức đúng đắn
về vị trí của mình trên thế giới.
Trên đây là một trong những điều tâm đắc nhất
tôi cảm nhận được khi đọc Vĩnh Sính. Cảm hứng sâu sắc về đời sống tinh thần xã
hội Việt Nam hôm nay đã giúp cho tác giả có cách khai thác lịch sử hợp lý, và
lời đề nghị ông muốn gửi gắm sau các trang viết cũng đã rõ, vấn đề chỉ còn là ở
chỗ chúng ta có chia sẻ và chấp nhận , để rồi cùng bắt tay vào việc đi tìm
những di lụy của nó trong những công việc trước mắt và tìm cách “gỡ rối “… hay
không thôi .
Chú thích
Chú thích
(1) (1 ) Nhà xuất bản Văn nghệ TP HCM và Trung tâm Nghiên
cứu quốc học xuất bản , 2001. Những số trang ghi trong bài đều dựa theo bản in
trên
(2) (2) Bản dịch
cuốn sách này , do Vĩnh Sính thực hiện đã được Hội khoa học lịch sử VN cho xuất bản , 1999 , với nhan đề Ký sự đến Việt Nam năm 1657.
Đã in
trên TBKTSG 2006
với nhan đề Có
một căn bệnh gọi là Dạ Lang tự đại
Viết
thêm 15-5-2013
Trên tinh
thần tự nhận thức vừa được nhen nhóm, chúng ta gần đây hay nói tới những thói
hư tật xấu của người mình như tham lam , gian dối, lười biếng , ích kỷ, trơ
tráo... Suy cho cùng các chứng thoạt nhìn lặt vặt đó cũng có nguồn gốc sâu xa .
Như sự tham lam sở dĩ nẩy sinh vì con
người ở vào thế làm ăn kém cỏi, không
thể tự mình thỏa mãn hết những nhu cầu tối thiểu của mình; trong mối quan hệ
với người khác và với cả xã hội chỉ thấy những mối lợi nhỏ. Tham ở người Việt
thường là tham vặt, dấu hiệu của một trình độ phát triển thấp, chứ không phải
những tham vọng lớn của người có tầm nhìn rộng rãi.
Trong
bài trên, người Việt được mô tả với những thói xấu trên phương diện quan niệm. Quan niệm của
chúng ta về mình và chỗ đứng của chúng
ta trong quan hệ các cộng đồng khác.
Trong sự kém cỏi lại loanh quanh trong cái ao nhà , ta ít hiểu biết về
thế giới về con người các dân tộc khác nói chung. Đến khi tiếp xúc với họ
ta có phần ngợp. Để tự trấn an ta đành
chọn lối kiêu ngạo, trưng ra những
cái mà mình cho là ưu việt của
mình để lòe người một phần mà cũng là để tự dối mình. Rồi
tự cho mình là đứng cao hơn cả so với người các dân tộc
khác. Và xem ai không nhìn mình như thế tức là những người không có thiện chí,
thậm chí là thù địch.
Như Vính Sính đã gọi đích danh, đó phải gọi là một thứ "chủ nghĩa sô -vanh " trong văn hóa cần phê phán
Như Vính Sính đã gọi đích danh, đó phải gọi là một thứ "chủ nghĩa sô -vanh " trong văn hóa cần phê phán
Cần nhấn mạnh là cách
nghĩ này kéo dài trong lịch sử và đến thời hiện đại lại càng phát triển với
những sắc thái tinh vi hơn và ra vẻ có lý hơn.
Trong
hoàn cảnh của một quốc gia muốn vượt ra cái bóng của nước ngoài để dành độc lập, tinh thần đó là cần thiết và
tạm chấp nhận được.
Nhưng cứ kéo dài mãi như hiện nay lại thành ra
lố bịch.
Và như
tác giả Nhật ở trên đã nói, đó là một sự cản trở đối với việc học hỏi và chung
sống với thế giới.